
Hiếm hoi trong số nữ nghệ sĩ tài năng vừa có thanh lẫn sắc và sớm được đào tạo từ chiếc nôi nghệ thuật truyền thống tuồng Việt Nam những năm 1960, NSND Đàm Liên đã tạo được ấn tượng khá sâu đậm đối với khán giả trong và ngoài nước qua nhiều vở diễn, trong đó có vai diễn để đời “Ông già cõng vợ đi xem hội”. Khán giả Liên Xô từng tôn vinh chị là “bà chúa của sân khấu tuồng”.
- PV: Thưa NSND Đàm Liên, cảm xúc của chị ra sao khi có mặt ở TPHCM trong dịp lễ kỷ niệm 30 năm ngày miền Nam giải phóng?

NSND Đàm Liên trong vở tuồng “Ông già cõng vợ đi xem hội”.
- Nghệ sĩ nhân dân ĐÀM LIÊN: Vui và xúc động lắm! Tôi cũng đã “xuống đường” trong không khí tưng bừng đi trong lễ kỷ niệm mừng chiến thắng của người dân Sài Gòn. Tuy không sống ở Sài Gòn nhưng tôi cũng hình dung những giờ phút thiêng liêng vui mừng của Sài Gòn đã đi từ cuộc kháng chiến mùa thu năm xưa đến ngày 30-4-1975. Nói làm sao hết những tình cảm của ngày hòa bình, thống nhất đất nước...
- Và, cả tình cảm trong nghệ thuật sân khấu hai miền Nam, Bắc sau ngày thống nhất?
- Nhiều kỷ niệm khó quên lắm. Tôi nhớ năm 1977 trong cuộc hội ngộ đầu tiên giữa các nghệ sĩ tuồng tại Quy Nhơn, tôi đã gặp gỡ NSND Chánh Phẩm (tuồng Quảng Nam), NSƯT Ngọc Cầm (tuồng Bình Định).
Đặc biệt là gặp gỡ các nghệ sĩ tài danh ở Đoàn hát bội thành phố Hồ Chí Minh lúc bấy giờ như NSND Thành Tôn, NSND Năm Đồ, NSND Đinh Bằng Phi, NSƯT Kim Thanh (lúc ấy còn rất trẻ) qua các trích đoạn tuồng “Thần nữ dâng ngũ linh kỳ”, “Lưu Kim Đính phá tứ môn”, “Sơn Hậu”.
Tôi hết sức thú vị, say mê theo dõi từng nét diễn: từ đôi mắt thần kỳ, đôi tay biết nói của cô Năm Đồ trong vai Lưu Kim Đính; nét diễn điêu luyện, sinh động của chú Thành Tôn trong vai Tiết Ứng Luông hay nét diễn sử dụng đôi mắt thông minh, tinh tế đi qua hai vòng tròn sân khấu, thể hiện nội tâm thật đặc sắc của Kim Thanh.
Mùa đông năm 1978, tại Nhà hát Lớn Hà Nội, tôi đã có dịp thưởng thức tài năng tuyệt vời của NSND Phùng Há qua vai Lữ Bố lúc tỏ tình, ve vãn, “vờn hụt” Điêu Thuyền (do NSƯT Tô Kim Hồng thủ diễn). Tôi hết sức ngưỡng mộ và học được rất nhiều điều khi quan sát nghệ thuật, kỹ thuật biểu diễn của NSND Phùng Há.
Còn nữa, vào năm 1984 trong chuyến cùng lưu diễn trong đoàn nghệ thuật dân tộc Việt Nam đến một số nước Tây Âu, tôi đã có cơ duyên gặp được các nghệ sĩ cải lương: Diệp Lang, Bạch Tuyết, Ngọc Giàu, Minh Vương, Lệ Thủy, Thanh Tòng. Chuyến đi hai tháng ấy còn ghi khắc nhiều kỷ niệm, giúp chúng tôi hiểu nhau, thông cảm, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
- Nghệ thuật dân tộc nói chung và tuồng nói riêng không còn ở thời kỳ hoàng kim, thậm chí có nguy cơ bị nền công nghệ giải trí hiện đại khuynh đảo, chị có cho rằng chúng ta đang bó tay?
- Nghệ thuật tuồng có truyền thống lâu đời và được xem là một trong những môn nghệ thuật dân tộc đặc sắc của Việt Nam. Trong khi đó, lớp trẻ hào hứng và dễ dàng tiếp nhận các loại hình nghệ thuật nước ngoài từ nhiều phương tiện nghe nhìn hiện đại coi như chuyện đương nhiên. Thế hệ nghệ sĩ chúng tôi làm sao mà không đau lòng khi thấy lớp trẻ chưa hiểu gì về nghệ thuật dân tộc mình. Giá như có một lớp trẻ biết yêu tuồng…! Vấn đề này sẽ tùy thuộc rất lớn vào đường lối, phương hướng, chiến lược phát triển văn hóa, nghệ thuật của nhà nước.
Tuy nhiên, tôi không nghĩ rằng chúng ta đang bó tay. Tôi đã từng chứng kiến sự say mê nghề, sự ham học hỏi của các diễn viên Đoàn hát bội thành phố Hồ Chí Minh trong đợt tập huấn do Bộ Văn hóa-Thông tin và Cục nghệ thuật biểu diễn tổ chức ở Đà Nẵng vào năm 1996.
Lớp diễn viên này bây giờ đã đóng vai trò những người kế tục xuất sắc cho nghệ thuật tuồng ở miền Nam như NSƯT Xuân Quang, NSƯT Ngọc Dung, Ngọc Nga, Công Danh. Tôi chỉ băn khoăn một điều giống như lời tâm sự của NSND Đinh Bằng Phi trong cuộc hội thảo mới đây là lo cho hát bội Sài Gòn càng ngày sẽ bị phôi pha và mai một bởi hình như lớp hậu duệ đang được đào tạo kế nghiệp cho phía Nam chỉ vỏn vẹn 6 em!
- Chị đã được vinh dự diễn cho Bác Hồ xem một vở tuồng nào không?
- Có chứ, tôi có thể gọi đó là kỷ niệm sâu sắc khi lần đầu tiên được đóng vai nữ anh hùng Trưng Trắc cho Bác xem. Vở tuồng do Tống Phước Phổ và Lưu Trọng Lư soạn. Năm đó tôi còn trẻ lắm, khoảng 14, 15 tuổi. Diễn xong, tôi được Bác khen; còn chú Vũ Kỳ sau này khi dẫn tôi đi tham quan khu nhà Bác, cứ gọi đùa một cách thân mật “cô Trưng Trắc của Bác Hồ đây rồi!”.
* * *
Chị đến với nghệ thuật tuồng từ cơ hội nào? Vẫn với giọng nói vang, trong đầy sức thu hút của một nghệ sĩ tuồng tài danh, NSND Đàm Liên kể quê mẹ ở Phú Yên, mẹ chị dường như có “gien” nghệ sĩ của ông ngoại nên hát rất hay. Khi ra Bắc, Đàm Liên học trường học sinh miền Nam và được chọn học múa. Nhưng chính giọng hát ru truyền cảm của mẹ mà chị rất yêu quý đã ăn sâu vào tâm thức, thôi thúc Đàm Liên quyết định rẽ sang nghệ thuật tuồng.
Muốn nghệ thuật tuồng vẫn sống, phát triển thì phải nuôi dưỡng và giáo dục nghệ thuật sâu rộng trong công chúng và xã hội; phải tạo được môi trường diễn xướng, môi trường thưởng thức đúng nghĩa của nó. Hiện nay, Đàm Liên vẫn miệt mài tìm tòi trong vốn quý nghệ thuật tuồng còn bao điều chưa khám phá. Chị truyền nghề từ giọng điệu, tiếng cười, câu hát, vũ đạo, trong cách diễn cái bi, cái hài, cái đẹp, cái hùng. Chỉ nói riêng về tiếng cười, Đàm Liên đang chuẩn bị ghi âm “36 điệu cười vai nam “ và “18 điệu cười vai nữ”, diễn tả đủ sắc thái, tâm trạng nhân vật trong nghệ thuật tuồng.
KIM ỬNG