
Cách đây gần 20 năm, Nhật Bản, nước công nghiệp phát triển hàng đầu ở châu Á đã phải than trời trước hiện tượng nhiều nhân tài bỏ ra nước ngoài nghiên cứu. Bây giờ tình hình đang diễn biến theo chiều ngược lại.
- Hiện tượng “ngược chiều” ở Nhật

Giới trẻ hiện đại Nhật Bản.
Tại sao nước Nhật lại có hiện tượng này? Vấn đề được nêu ra đầu tiên là môi trường nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học của Nhật Bản đã không được đầu tư đúng mức, phần lớn các cơ sở nghiên cứu đều trông chờ vào ngân sách phân bổ eo hẹp của nhà nước, chỉ bằng 1/10 đến 1/20 nếu so với Mỹ, không được sự tài trợ tích cực từ giới công nghiệp, có khuynh hướng tập trung nghiên cứu ứng dụng hơn là khoa học cơ bản.
Hai là nạn phân biệt đối xử giữa các nhà khoa học, giữa đại học và viện nghiên cứu theo truyền thống “học phiệt” (*) trong giới trí thức làm nản lòng những người trẻ tuổi muốn vươn lên.
Ba là vấn đề tổ chức đề bạt học hàm, học vị còn giữ theo lề lối cũ, phải chờ đợi sự thử thách vô lý của những bậc “đàn anh”, khó lòng vượt qua được những lệ làng mang tính chất phong kiến, độc tôn.
Vì lẽ đó, nhiều người sau khi đạt được học vị đã sang Mỹ để tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu và sẵn sàng ở lại giảng dạy nhằm nhận được sự hỗ trợ tích cực để tổ chức các ê-kíp nghiên cứu học thuật đỉnh cao.
Ngày nay, với nỗ lực của Chính phủ, hiện tượng chảy máu chất xám có phần được cải thiện, các vị trí chủ chốt trong nghiên cứu đã dần chuyển sang một thế hệ mới với khả năng hoạt động giao lưu và nghiên cứu mang tính toàn cầu, phần nào mang lại cho những nhà khoa học ở trong nước của Nhật Bản có một vị trí ngang tầm quốc tế.
Việc Nhà nước liên tục nâng cao trình độ nghiên cứu và giảng dạy, đầu tư không ngừng vào lĩnh vực đào tạo lớp khoa học trẻ kế thừa, mở rộng giao lưu học thuật trên các diễn đàn đã làm cho nền giáo dục đại học tại Nhật ngày càng trở thành điểm đến hứa hẹn đối với các nhà nghiên cứu ở châu Á, dù đời sống sinh hoạt tại Nhật khá đắt đỏ.
- Để làn sóng người Việt trở về tăng tốc
Do hoàn cảnh lịch sử, số trí thức tại miền Nam trước 1975 phần lớn được đào tạo ở các nước phương Tây, rải rác khắp nơi trên thế giới. Số người được đào tạo ở những đại học tại miền Nam trước đây cũng bị thất thoát khá lớn, vì vậy, dù không phải là hiện tượng “chảy máu chất xám” như đã đề cập ở trên nhưng cũng là lãng phí một lực lượng khoa học đông đảo, có nhiều kinh nghiệm.
Theo chúng tôi, con số đó có thể lên đến 300.000 – 500.000 người có trình độ đại học và 10% – 12% số ấy có trình độ cao hơn. Việc nghiên cứu một cách quy mô các chế độ, chính sách cụ thể với mục đích huy động lực lượng này vào sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước ngày nay là một việc làm cấp bách, nếu không muốn tiếp tục lãng phí sức người, một tiềm năng to lớn của Tổ quốc.
Đào tạo một kỹ sư ở nước ngoài tốn không ít, phải mất từ 25.000 – 30.000 đôla (với ước tính 5.000 – 7.000 đôla/năm và thời gian đào tạo là 5 năm). Nếu làm phép tính nhân lên với số người kể trên sẽ lên đến hàng tỷ đôla, chúng ta tự khắc phải nghĩ đến việc sử dụng số người này như thế nào và cũng như sử dụng được sẽ tiết kiệm được cho đất nước bao nhiêu.
Gần đây, thành phố Hồ Chí Minh đang tiến hành đào tạo khoảng 300 người có trình độ (học vị thạc sĩ, tiến sĩ) tốn hàng trăm tỷ đồng. Điều đó cho thấy, nhận thức về sự cần thiết phải có một lực lượng trí thức đông đảo cho thành phố trong bước phát triển về nhân lực song song với phát triển kinh tế đã hình thành.
Vấn đề là tại sao chúng ta sẵn sàng đầu tư tốn kém để đào tạo mới nhưng việc tạo điều kiện cho những kiều bào trở về làm việc và sinh sống tại quê hương lại chậm được triển khai dù đã có Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị (tháng 4-2004)? Ngay việc phổ biến, giải thích nội dung của nghị quyết vẫn còn dừng lại trên những bản tin, chưa trở thành một cuộc vận động tích cực, có tác động mạnh mẽ lên chuyện “đi, ở hay về” của hàng triệu kiều bào ta ở nước ngoài.
Chúng tôi nghĩ nên có một chính sách thật cụ thể, rõ ràng để làn sóng những người con xa xứ trở về “tăng tốc” nhanh hơn.
* “học phiệt” là tinh thần độc tôn, độc đoán trong giới trí thức, là những nhóm khuynh loát về quyền lực trong đại học hay viện nghiên cứu học thuật.
HỒNG LÊ THỌ (Tokyo)