
Như các ngôi làng trồng lúa nước có đình làng, miếu mạo, những ngôi làng bên bờ biển Đông ở Quảng Bình lập đình để thờ thần biển. Mà cốt lõi của thần linh biển cả là cá voi. Vệt dài 116km bờ biển Quảng Bình là vùng văn hóa phong phú lời ca tiếng hát từ vòm ngực. Để giữ biển, ngư dân đã có một gia tài văn hóa sâu sắc tự đáy lòng.
- Thành hoàng làng biển
Cá voi có từ trong tiềm thức, cá voi có từ trong cúng bái, chiêm lễ, cá voi đặt định trong đình làng trọng vọng, cá voi được chiêm bái như thánh thần, cá voi được suy tôn như vị thánh của biển cả, và cũng chính cá voi là cột mốc chủ quyền biển cả cho người kẻ biển. Những làng biển bên bờ biển Quảng Bình hầu như làng nào cũng thờ vị thần hộ mệnh này. Bởi theo như bô lão làng Trung Bính (Bảo Ninh, Đồng Hới): “Cá voi gọi mưa, gọi gió, cá voi bảo vệ ngư dân khỏi sự tàn nhẫn của thuồng luồng, bão tố, cá voi bảo vệ ngư dân khỏi hàm răng cá mập, cá voi cũng bảo vệ ngư dân khỏi các toán cướp biển từ xa xưa”.

Tại đình làng biển Sa Động (Bảo Ninh, Đồng Hới), hình Bác Hồ được khắc lên đốt sống cá voi để thờ
Lão ngư Lê Thiện, ở Quảng Xuân, Quảng Trạch, nói rằng: “Ngày xưa chưa có thuyền máy, đi biển bằng thuyền buồm, ra khơi xa, nơi nào thấy có cá voi là yên tâm đánh bắt. Chính nơi cá voi thổi lên từng cột nước cao ngất là tín hiệu để ngư dân bắt nhiều cá. Đánh bắt cạnh cá voi đem lại sự yên tâm tuyệt đối vì cá voi bảo vệ ngư dân”. Cá voi được người miệt biển coi như vị thánh của biển cả. Làng nào có cá voi vào táng trước biển làng, làng đó được vùng biển khắp nơi xem như hội khí linh thiêng. Cúng bái linh đình, lập đền thờ tự, ngư dân khắp nơi đến khấn vái. Với họ, đó là chỗ dựa giữa muôn nghìn trùng khơi.
Quảng Bình có hai nơi nổi tiếng còn thờ tự 3 bộ xương cá voi lớn nhất khu vực trong đình làng bên bờ biển Đông là Cảnh Dương (Quảng Trạch) với 2 bộ cá voi ông, cá voi bà. Dân Cảnh Dương mỗi chuyến ra khơi đều đến đình thắp hương khấn vái mưa thuận gió hòa. Bộ xương khác được đưa vào đình làng Sa Động mà mỗi đốt sống của bộ xương cần đến hai trai đinh lực lưỡng khiêng. Nhưng điều kỳ lạ, đình làng Sa Động là nơi duy nhất thờ Bác Hồ, ngoài cá voi. Và ở đây, trí tuệ dân gian đã khắc hình ảnh Bác vào đốt sống đẹp nhất, gần tim cá và đặt trang trọng trong tủ kính giữa đình làng với hương khói mãn tâm.
Và nhiều vùng của làng biển Quảng Bình còn lập ra cả nghĩa địa cá voi nhỏ gọi là cá cô, cá cậu. Họ thành tâm lập đàn, hương oẳn, cúng bái mỗi dịp ra khơi. Những con cá voi loại nhỏ dạt vào bờ, ngư dân nào bắt gặp, liền mua hòm, lụa trắng, chè khô, rồi tìm cát trắng mịn, khâm liệm; nhà có bao nhiêu thành viên lại xé khăn trắng để tang ba ngày. Chuyện cá cô, cá cậu chết, với ngư dân, nó như người thân ruột thịt mất và hàng xóm cũng đến khói hương chia sẻ.
- Xuân Thủ Kỳ Yên
Các làng biển đầu mỗi năm thường tổ chức lễ Xuân Thủ Kỳ Yên bên bờ biển Đông nhộn nhịp, linh đình. Đấy là lễ cùng thần biển, cầu hòa, cầu mùa bội thu. Một trong những làng đó là làng Động Hải thuộc phường Hải Thành, Đồng Hới ngày nay. Người làng Động Hải đến đình làng bên bờ biển, hò khoan bắt nhịp chèo cạn, múa hát rộn ràng. Họ hát rằng:
“Ngó vô trong bàn thờ đèn chong sáng rạng
Ngó ra sân chèo cạn múa bông
Trước làng có núi có sông
Lòng dân ngưỡng mộ xin ngài thượng đồng hộ dân”.

Hàng năm, các làng biển Quảng Bình đều mở hội Xuân Thủ Kỳ Yên linh đình
Khi xóm trong xướng xong thì xóm ngoài cũng căng cứng vòm họng:
“Cá chở đầy khoang biết ơn người đại độ
Thuyền vui đỗ bến biết ơn người hôm mai
Năm nay Xuân Thủ rước ngài
Mời eng mời ả ta thi tài hò khoan”.
Khi lễ lạt, hò hát xong, thủ từ đình làng làm lễ dâng hương trên sông nước. Những chức sắc cao nhất của ngư phu đại bái ở ba gian chính đình làng, mỗi người thỉnh một bát hương từ hậu đình rước lên các thuyền cá chờ sẵn dưới bến, trống kèn hưởng vọng một vùng sông nước, ngũ nhạc vang xa đến náo nức. Ba chiếc thuyền chở ba chức sắc cao tuổi hướng cửa Nhật Lệ, ra biển Đông, thuyền cùng dừng lại, họ đưa bát hương lên đỉnh đầu vái lạy trịnh trọng biển trời, sau đó đổ bát hương xuống lòng biển Đông với sự khấn nguyện con nước trong xanh, cho con cháu một mùa biển tốt tươi.
Chuyến về với các làng biển, chúng tôi còn được kể rằng, ngày xưa, không chỉ trên bờ người kẻ ruộng chia ruộng làm ăn mà người kẻ biển cũng có tục bắt thăm chia ngư trường. Khi hội làng mùa Xuân Thủ Kỳ Yên hoàn thành, làng biển có bao nhiêu thuyền ghe lại tập trung làm lễ bắt thăm ngư trường. Các chủ thuyền thắp hương tế thần rồi lần lượt tiến đến ống đồng đựng các que thăm bọc giấy đỏ. Mỗi que thăm ghi tên một ngư trường nhất định như đã được thần biển định sẵn. Ai bắt được tên ngư trường nào, người đó, xóm đó bắt cá ở ngư trường ghi sẵn trong giấy đỏ. Người làng biển nói, theo xăm mà đánh bắt, không tranh giành thua thiệt từng điểm quăng chài, thả lưới. Chỉ bằng giao ước của chữ tín mà thanh bình được lòng người nơi sóng to gió cả, keo sơn đời đời cho một vùng biển lớn lao là kỳ tích văn hóa bên bờ biển Đông.
- Hải trình bằng thơ
Người miền biển không chỉ chất phác cần cù, mà còn thông thái với những hải trình bằng thơ cất lên từ tâm can kinh nghiệm sóng nước biển Đông. Một dải lồng lộng từ Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa… được đúc bằng những vẫn thơ cao vút, vạm vỡ hơn con sóng để truyền đời cho con cháu giữ biển làm ăn. Bên bờ biển Đông, lão ngư Nguyễn Đồng đọc bên chân sóng:
“Cựa lạch Roòn sóng dồn ký ức
Nơi ghe thuyền thổn thức tình quê/
hững ngày xuôi ngược đi về
Lược trình ra Bắc, lược kê mấy dòng
Ngó ra mịt mù hòn Ông
Ngoài sóng cả một vùng rạn Ló
Dãy Hoành Sơn lồ lộ cao phong
Thuyền đi yên ngựa thẳng dong
Núi Ông chộ mặt, mụi Rồng nê ra
Dáng Vụng Chùa thân bà phơi cánh
Bóng Hòn La thấp thoáng kề bên”.
Đọc xong ông giải thích, đó là những dấu ấn của các đảo trong vũng Hòn La (Quảng Bình) và dãy núi Hoành Sơn có đèo ngang, cứ bám vào đó sẽ tìm kiếm được con nước đẹp để đánh bắt.
| |
Ra chút nữa là vùng Nghệ - Tĩnh rộng lớn cũng khơi lộng hào hoa:
“Hòn Sơn Dương mịt mờ xanh biếc
Rạn thôn Đông nối tiếp không rời
Bến chim đảo cánh bắt mồi
Rọc Roòn ngó chộ là nơi Vụng Nàng
Trong Vụng Nàng có chàng Vụng Áng
Nơi trú chân ngày tháng động trời”.
Rồi thơ hải trình chỉ lối ngư trường xứ Nghệ:
“Hồng Lam qua đó cũng ngừng
Nơi đây Nghệ - Tĩnh sóng dâng cũng vào
Qua Bãi Đào, rú cao Hòn Mắc
Ngó mù khơi như lạc một mình
Hòn Nồm nhỏ nhỏ xinh xinh
Qua cống Lạch Nghệ cho tinh kẻo lầm
Mé nước ngầm, vàng thâm đỏ tía
Đảo Song Ngư đáo địa thuở nào”.
Đã có hải trình đi ra, ắt có hải trình đi vào bằng thơ một cách lịch lãm của lão ngư yêu biển. Xin chép ra thêm mấy đoạn hải trình đi vào bằng thơ mà ngư dân Quảng Bình vẫn truyền tụng từ xưa đến nay. Họ đi vào Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, đi qua Hải Vân, qua Quảng Nam, Quảng Ngãi rồi sâu hơn nữa, nơi đâu cũng để lại dấu ấn riêng qua thơ hải trình. Khi gặp Cửa Tùng họ nói:
“Xuôi vô ba cạnh thẳng liền
Cửa Tùng nằm đó một miền đất cao”.
Thuyền vào Thừa Thiên lại nhắc:
“Thừa Thiên nằm đó ai đi đủ đầy
Phủ Thừa Thuận Hóa là đây
Đồn ông, cột thép thành xây
Trình đồn nộp lễ coi ngày mà ra”.
Gặp núi Hải Vân, giọng hải trình cất lên chất ngất:
“Núi Hải Vân chất ngất ngàn trùng
Hòn Hành nằm đó bên trong vụng Hàng”.
Vào Quảng Nam, chất chứa sinh cảnh cô liêu hòn Nồm:
“Ngó quanh cửa Đại trong ngoài
Hòn Nồm nằm đó mồ côi một mình”.
Hải trình đi vào cũng cần nơi dừng chân bến nghĩ, họ đã chọn một vùng biển của Quảng Ngãi làm nơi trú chân cho chuyến đi dài ngày. Và thơ hải trình chỉ dẫn:
“Lâm thâm sóng vỗ rì rào
Sa Kỳ, vũng vịnh ta vào nghĩ ngơi
Chốn nghĩ ngơi gặp nơi phong cảnh
Lao nằm ngoài thỏng thảnh nghiêng nghiêng
Xưa nay chốn ấy đã truyền
Chộ hòn Lò Riệu nghênh thuyền cho khơi”.
Kết thúc hải trình đi vào là mấy câu thơ phóng khoáng:
“Hỡi ai thủy thủ anh tài
Bán buôn hôm sớm một hai dặm trường
Sài Gòn thẳng hướng cùng phương
Đi vô tới đó con đường còn xa
Nước non phong cảnh bao la
Ngài buôn kẻ bán thuận hòa vui chung”.
MINH PHONG