Như chim lìa tổ

Như chim lìa tổ

Ông Năm ngồi chồm hổm trên chiếc hòm bằng gỗ thông. Xung quanh ông lỉnh kỉnh mấy cái giỏ đựng đầy đồ lặt vặt, ly, tách, dĩa, ấm nước, muỗng, chén, thẩu to, thẩu nhỏ. Hai cái bàn bằng gỗ tạp lỏng chỏng bên cạnh, mặt bàn úp sấp vào nhau để đuổi khách. Vài cái ghế thấp được cột thành một chùm. Toàn cảnh chứng tỏ một cuộc thu xếp để dời chỗ, nói như người ta thường nói là dọn nhà.

Bà Năm từ đằng sau nhà bước ra, tay cầm một bình hương trống rỗng, thấy ông Năm cứ ngồi gục đầu mãi, bà tằng hắng lên tiếng:

- Ông nó, chẳng còn chút chi đâu. Để tôi ra lộ kêu chú Ba xe lam đem xe vô chở nghe? Trưa quá rồi, dọn cho lẹ, chớ cái điệu này, chần chừ hoài, không chừng mắc mưa chiều thì mệt.

Ông Năm ngước lên nhìn bà, mặt có vẻ ngái ngủ, chỉ có đôi mắt ông là còn sáng quắc, tỉnh táo, có điều ánh mắt không nhìn vào đâu, không đậu vào ai, cả khi nói đồng ý với bà Năm. Có vẻ hơi bực mình bà Năm vừa bước ra vừa càu nhàu:

- Dọn tới dọn lui hoài, riết muốn bệnh luôn. Chưa đầy năm đã rục rịch, hai năm là bỏ đi. Số già rồi mà còn khổ.

Bà Năm đi rồi, căn nhà trở nên vắng lặng lạ lùng. Trong nhà trống trơn, mấy cánh cửa lắc lay cót két theo từng cơn gió. Tiếng kêu rít như tiếng bụi tre già cò cứa làm ông Năm chợt nhớ đến bụi lồ ô độc nhất trong khu vườn tràm ở U Minh Hạ, căn nhà đầu tiên của ông từ sau chiến tranh, mà ông đã bỏ đi.

Đúng như người ta thường nói, tuổi già ít nghĩ đến tương lai mà thường hoài vọng quá khứ. Ông Năm không băn khoăn lo lắng nhiều đến chỗ ở mới sắp tới nhưng đầu óc cứ lơ mơ về tiếng tre kẽo kẹt vọng buồn. Tiếng kẽo kẹt làm ông liên tưởng đến tiếng u u rào rạo của hàng vạn con ong, rồi tự dưng ông nghĩ tới mùi mật ngọt ngào, mùi hoa tràm thơm ngát, cả màu vàng ươm của sáp, của hoa trong khu vườn tràm ngày đó.

Đấy là những ngày sung sướng. Chiến tranh chấm dứt, những cây tràm lớn vùn vụt. Khu rừng đước cách đó không xa dày kịt dần. Những thân cây cháy đen họa hoằn lắm mới nhìn thấy, dấu tích của cuộc chiến tranh bắt đầu chìm dần vào quên lãng.

Ông Năm cùng vợ trở lại nghề cũ của mình: nghề nuôi ong mật. Hằng ngày, hai vợ chồng lặn lội vào rừng, kiếm một chỗ thuận tiện, gác kèo, dọn chỗ cho những đàn ong rã bầy lưu trú, tạo dựng căn nhà mới của nó. Khi vườn tràm của ông bắt đầu cho hoa, ông gầy thêm nhiều tổ mới trong vườn nhà. Hai vợ chồng già, không con cái, nương tựa nhau, chia sẻ với những con ong bé nhỏ niềm vui và sự thương yêu của mình. Công việc vừa là thú vui, vừa là an ủi. Ngắm nhìn những con ong thợ chăm chút xây dựng từ lúc ban đầu đến khi thành một tổ ong trọn vẹn, giàu có, đầy mật là niềm thích thú khôn cùng của ông. Nhiều hôm, ông Năm mải  mê nhìn đàn ong quay tròn một điệu vũ kỳ bí để chỉ cho nhau nguồn mật hoa, đến nỗi bà Năm phải la lên:

- Ông cứ như là con nít không bằng. Thợ nuôi ong mà cứ ngồi ngắm ong suốt ngày thì chết đói sớm.

Nhưng làm sao có thể chết đói được bởi rừng giàu có với nguồn cung cấp vô hạn. Ít ra thì hai vợ chồng ông đã nghĩ  vậy.

Thế nhưng, một ngày nọ (có thể sự việc bắt đầu từ lâu và bây giờ  ông Năm mới nhận biết được), rừng xao động với những tiếng cưa chặt, với những đụn khói bốc cao. Đàn ong ngơ ngác không vào tổ, bay lòng vòng.  Càng ngày, tiếng cưa càng nhiều, số đám khói càng tăng. Rồi  rừng bắt đầu thưa, nhiều chỗ trơ ra những thân cây nám đen, nước bùn khuấy đục. Đàn ong bị kinh động cả ngày lẫn đêm. Mật chua và ít, tổ được xây vội vàng không bám chắc chứng tỏ những con ong đang trong cơn hoảng loạn. Ông bà Năm  nhìn những tổ ong trong vườn nhà than:

- Y như thời chiến tranh.

Nhưng có lẽ còn hơn vì sự tàn phá của con người thật là ghê gớm. Họ lùng sục khắp nơi, bắt thú rừng bừa bãi, lấy mật cả những tổ ong non, không cần biết đến ai là người chống kèo dọn ổ. Luật rừng không còn được tôn trọng. Một ngày nọ, ông Năm vào rừng rồi trở về với cái thùng rỗng và thương tích bầm tím khắp người. Ông đã chạm trán với lũ ăn trộm công sức mình. Ngao ngán, hai ông bà không đi rừng nữa, họ chăm lo cho những tổ ong trong vườn. Nhưng lạ thay, ong càng ngày càng ít đi, mảnh vườn tràm bé nhỏ làm sao nuôi sống nổi chúng mà rừng rậm trong kia thì cứ bị ăn lấn xa dần.

Bọn người khuấy lộn rừng càng lúc càng nhiều. Họ đến, cắm lều, dựng nhà. Người đông, cảnh vui, nhưng ông bà Năm đã bắt đầu mường tượng thấy những ngày thiếu thốn sắp tới.

Rồi mùa hoa tràm đến, những đàn ong thưa thớt không buồn bám víu vào những kèo ngang dọn sẵn. Tuổi già, sức yếu, không thể bon chen với lũ người phá rừng, bòn rút của rừng quá thô bạo, ông Năm quyết định bán rẻ mảnh vườn lui về quê ngoại. Ông nói với vợ:

- Thôi bà à. Tui cứ tưởng mình sẽ chết ở đây với đàn ong, rừng tràm. Nhưng cái số tui với bà còn lận đận. Ởû riết đây rồi sẽ chết đói thôi.

- Đi thì đi, nhưng lần này tôi không muốn nuôi ong nuôi ỏng gì nữa. Dứt cái nghiệp này đi, buôn bán với người ta sống qua ngày.

Ông Năm đau lòng, nhưng mảnh đất bên vợ gần rừng Chim ở Bạc Liêu làm ông thanh thản. Gian nhà nhỏ vách lá nằm giữa một mảnh vườn nhãn chỉ bằng một phần trăm khu vườn tràm của ông hồi trước. Bà Năm dọn một cái quán nhỏ bán lặt vặt và đặt hai cái bàn gỗ tạp bán nước dừa cùng trà đá. Khách du  lịch  thăm rừng chim khá đông, nhưng phần  nhiều  họ tấp vào những cái quán ngoài lộ tiện nghi và đầy đủ hơn cái quán trà đá nghèo nàn. Chỉ có những ông già yêu chim và họa hoằn những học sinh, sinh viên nghiên cứu về chim mới ghé quán ông. Một ly nước mà khách ngồi suốt buổi, rồi cả chủ lẫn khách cứ thế im lặng ngắm nhìn những đàn chim tụ tập hàng ngàn con cùng bay lên hạ xuống như những tấm thảm rập rờn.

Bây giờ thì những đàn cò, đàn diệc trở thành quen thuộc và thân yêu. Ông Năm đã quen quá rồi khi thức dậy với tiếng chim rộn rã cùng  tiếng vỗ cánh rào rào mạnh mẽ mở đầu một ngày mới. Và hoàng hôn xuống, hàng trăm hàng vạn tiếng kêu gọi bầy như hát lên từ trên không với những đội hình đủ kiểu, từ khắp bốn phương trời hiện hình dần, tìm về tổ ấm. Bà Năm có càu nhàu thì ông vẫn là ông Năm yêu thiên nhiên và nhận những gì thiên nhiên ban phát một cách hàm ơn và trân trọng.

Nhưng gần một năm nay, rừng Chim lại bị làn sóng khai thác kiểu khai thác như ở miền U Minh Hạ. Các khoảng đất quanh nhà ông ngày một ngày hai biến thành những quán xá khang trang, những quán nhậu rập rình âm nhạc. Nhạc mở suốt đêm, điện giăng khắp chỗ. Nhiều đêm thức giấc, ông Năm còn nghe tiếng chim nhớn nhác trở mình, kêu hoảng.

Những tấm bảng quảng cáo các món ăn đặc sản mà chim là chủ yếu làm ông Năm kinh hoàng. Mùi thơm của món chim quay béo lợ đã xua đuổi mùi không khí trong lành của rừng cây. Ông Năm nhiều lần bắt gặp những kẻ lưới chim vô tội vạ trong khu rừng. Chim non chúng cũng không tha. Khách đến nhậu muốn nhiều hơn khách du lịch. Khu  dân cư cạnh rừng bị biến thành khu ăn nhậu chim trời.

Rồi việc gì đến sẽ đến. Chim không muốn về nơi không còn yên tĩnh, chim không muốn đậu ở miền đất hiểm nguy và đau đớn hơn, chim không sinh sôi nẩy nở kịp. Rừng chim cạn kiệt.

Mỗi chiều, mỗi sáng, ông Năm buồn bã nhìn lên những vòm cây của khu rừng chim và chợt cảm thấy lẻ loi vô kể. Bởi vậy, ôâng muốn ra đi. Ông muốn đi cho khuất mắt. Một ông già thì làm được gì giữa đám người nhăng nhố quay cuồng đó?

Có tiếng xe ở phía trước, bà Năm bước vào:

- Rồi, chú Ba tới đó. Ông liệu phụ tui khiêng đồ lên xe.

Chú Ba xe lam ngồi dưới gốc một cây nhãn non nheo mắt nhìn ông Năm:

- Anh Năm bán cái vườn này cho thằng cha Thanh Bình làm thằng cha Của tức nổ đom đóm mắt. Nó nói anh không biết làm ăn, chỗ này mở một nhà hàng đặc sản là hết xẩy.

Ông Năm dừng tay nhìn mông lung về phía cánh rừng, trên những vòm cây vàng ánh nắng. Không một bóng chim. Ông nói mà không biết mình có trả lời đúng ý chú Ba xe lam hay không.

- Thiên nhiên hào phóng thiệt, đất đai giàu có thiệt, nhưng có của mà không biết tiêu thì cũng hết. Sẽ không còn cái gì để mà khai thác đâu chú Ba à.

- È nhà hàng khách sạn, quán nhậu thì có bao giờ ế khách đâu chú Năm!

Nhưng ông Năm không nghe được câu trả lời của chú Ba. Trái tim ông đang thắt lại và trí óc như phủ một màn sương mờ. Ơi những đàn chim buổi sáng, ơi những cánh cò hoàng hôn. Ông cũng đang giống như chim, cam lòng xa lìa tổ ấm. Ông đi kiếm một chỗ mà nơi đó thiên nhiên cùng con người là một, nương nhẹ nhau để cùng sống và tồn tại. Ở đó ông sẽ gầy lại đàn ong xưa, sẽ nuôi một vườn cây cho chim về tụ hội. Trước kia đó là hiện thực nhưng bây giờ là một ước mơ.

Tiếng gọi của bà Năm như một tiếng đàn buồn:

- Thôi, mình đi đi ông.

Kim Hài

Tin cùng chuyên mục