
Trong cõi nhân gian, khi nói vềcơ duyên, người ta thường nghĩ tới “số trời” do sự huyền diệu của siêutự nhiên mang đến. Thực ra, cũng không hẳn là vậy. Cơ duyên đôi khi còn do ngườitrần thế mang tới. Như người nằm dưới ngôi mộ bình dị này đã tạo duyên cho tôigặp rất nhiều bạn cũ ở chiến trường hay tao ngộ gặp nhau trên khắp nẻo đường đấtnước. Người này, sống se duyên, tạo duyên, chết rồi vẫn tạo duyên, se duyên. Mộông là một địa chỉ để chúng tôi gặp nhau trong tiết thanh minh hay những ngàygiáp tết. Chúng tôi là học trò của ông. Ở nghĩa trang này, duy nhất có mộ ôngtrên bia mộ có khắc danh xưng “Thầy giáo”. Ai biết ông cũng gọi ông là thầygiáo. Cho dù người ta không học ông một ngày nào, một chữnào.
Chúng tôi thân thiết với nhau từ thầy. Nhiềungười nên vợ nên chồng từ thầy. Cuộc đời ngắn ngủi của thầy như câu dân ca buồnrười rượi “Dòng đời xuôi ngược, bao gió mưa con thuyền trôi...”. Người đời cóthêm cái để nhớ lại, nhìn đi...
Thầy là người Hà Nội gốc, là người thầy đầutiên của tôi. Năm 1959, cha tôi từ quê ra Hà Nội tìm việc làm. Hồi đó, ở Hà Nộicó chủ trương cho kinh tế tư nhân phát triển. Nhiều xí nghiệp tư nhân được thànhlập. Cha tôi làm kế toán cho một xí nghiệp sản xuất ống tiêm. Tôi theo cha ra HàNội. Một phần để chia đỡ miệng ăn ở nhà. Một phần để cha tôi dạy tôi học. Chatôi được chủ cho ăn ngủ ngay tại xưởng ở khu phố gần ga Hàng Cỏ.
Do nhà nhỏ, đặt 4 bệ kéo ống tiêm và một cáibàn để cha tôi làm việc đã chật chội đến mức thường phải đi nghiêng để tránhđụng chạm làm vỡ các ống tuýp. Tôi sống ở hè phố là chính. Hồi ấy, phố tôi ở lànơi làm ăn buôn bán nhộn nhịp vào bậc nhất ở Hà Nội. Hè phố rộng rãi, thôngthoáng. Các cây bàng là nơi vui chơi ưa thích nhất của tôi. Mùa hè chơi trongtán lá xanh, hái bàng chín. Mùa đông gom lá bàng khô nhóm lửa sưởi ấm quanh gốc.Trong các thứ quả, màu vàng và vị ngọt của bàng chín đối với tôi là đẹp nhất,ngon nhất.

Minh họa: A.DŨNG
Một chiều mùa thu, khi tụt xuống gần tới gốc,tôi bị té ngã. Người đỡ tôi dậy là thầy. Thầy vừa trong lớp học đi ra. Một ngườiđàn ông đã có tuổi, mặc đồ sang trọng. Chiếc kính trắng gọng vàng càng làm chokhuôn mặt ông tĩnh lặng hơn. Dường như những đường nét, màu sắc của sự cô đơn,suy tư đã có trong ông từ lúc mới ra đời. Thầy xem xét khắp người tôi, rồi hỏi -Có đau ở trong không?
Cú ngã không là gì đối với tôi cả. Tôi leotrèo nhiều, bị ngã cũng lắm. Tôi tò mò hỏi lại: - Đau trong làsao?
Thầy vỗ đầu, xoa ngực tôi nói: - Là đau trongđầu, đau trong ngực ấy... Tôi bảo không đau rồi định đi. Thầy giữ tôi lại hỏichuyện nhà, chuyện vì sao không đi học. Tôi tình thực kể hết. Thầy bảo, mai đếnlớp thầy học. Thầy dạy lớp 3 ở trường tư thục gần lối ngõ chợ Khâm Thiên. Tôi vềnói với cha tôi chuyện đi học. Cha tôi bảo: Học phí cao lắm. Không học được đâu!Hoàn cảnh gia đình tôi lúc bấy giờ chồng chất khó khăn. Tôi thương cha tôi làmviệc vất vả, tối về còn phải gò lưng cặm cụi dạy tôi học trên chiếc bàn gỗ nhemnhuốc đầy vết mực và cặn nước trà. “Cứ đến thử xem, nếu phải đóng học phí thìthôi!”, tôi nói vậy. Cha tôi dặn: - Phải hỏi học phí trước khi vào học. Hai giờchiều hôm sau tôi đến lớp. Thấy tôi xớ rớ rụt rè ngoài cửa, thầy gọi: - Vào lớpđi chứ! Tôi hỏi: - Bố con dặn phải hỏi thầy tiền học phí bao nhiêu ạ! Thầy dắttôi vào lớp, bảo: - Em không phải đóng học phí.
Tôi có ngờ đâu, câu hỏi của tôi đã gây khókhăn và thiệt thòi cho thầy. Sau này tôi mới biết, sáng hôm ấy, thầy nói với ôngchủ trường, tôi là cháu họ của thầy ở quê ra nên xin miễn học phí. Chủ trườngbảo, nếu là người thân thì được. Trong lớp học có con của chủ trường. Nó máchvới bố nó, tôi không phải là cháu của thầy. “Đã là người nhà, không ai hỏi nhưvậy”. Thằng nhóc bằng tuổi tôi nhưng xem ra láu cá hơn tôi nhiều. Ông chủ trườngkhông chịu miễn học phí cho tôi. Thầy đành phải bảo ông ta trừ tiền học phí củatôi vào lương của thầy.
Tôi không biết vì yêu nghề hay vì cái gì đó,khi đứng lớp dạy học, thầy là con người khác hẳn. Vẻ tĩnh lặng tư lự buồn phiềnbiến mất. Thay vào đó là sắc diện uy nghiêm sắc lạnh, giống như tượng thần canhgiữ cổng đình, chùa, miếu mạo. Thầy khắt khe bắt lỗi bọn nhóc chúng tôi từng li,từng tí. Mỗi lần bắt lỗi, thầy đều “hừm” một tiếng, gõ thước kẻ xuống bàn, lạnhlùng hỏi: “Phải làm sao cho nhớ đây?”. “Barem” hình phạt của thầy được viết totreo trên tường. Ngồi vẹo lưng: phạt một thước vào vai. Vở bẩn lem mực: mộtthước vào tay phải. Không thuộc bài: hai thước trái phải vào mông. Bọn nhóckhông dám lười học vì sợ thầy. Viết chữ cẩn thận, làm tính cho nhanh, cho đúngcũng vì sợ thầy.
Cũng lạ, sợ vẫn sợ nhưng chúng tôi học rất hàohứng. Thầy kích thích tinh thần thi đua trong bọn nhóc. Trước khi vào học, baogiờ thầy cũng gióng giả huấn thị: “Các trò phải cố gắng học để trở thành ngườitốt. Muốn làm người tốt phải làm việc tốt. Muốn làm việc tốt phải biết viết,tính toán đúng và nhanh. Nhanh mà không đúng là hỏng. Đúng mà không nhanh cũnghỏng nốt. Các trò phải nhớ kỹ lời thầy: “Đúng và nhanh”. Chúng tôi phải tậptrung cao độ và rất phấn chấn viết chính tả, làm tính đố cho đúng và nhanh. Tốcđộ đọc chính tả của thầy tháng sau bao giờ cũng nhanh hơn tháng trước. Các phéptính cộng trừ nhân chia cũng lần lần tăng lên. Đúng và nhanh thầy chỉ khen mỗicâu: “Được!”. Không đúng hoặc không theo kịp mọi người trong lớp, thầy cũng chỉnói một câu: “Không được!”. Lời phán xử “Không được!” của thầy còn đau hơn hìnhphạt bị đánh đòn.
Bao năm qua đi, bài học “Đúng và nhanh” củathầy đã theo tôi trên mọi nẻo đường. Thầy đã khai sáng, mở lối cho chúng tôi.Sống, chết cũng từ “đúng và nhanh”. Thành công cũng từ “đúng và nhanh”. Tuynhiên, bài học về việc làm người do thầy dạy vẫn là bài học thấm thía nhất, sâuđậm nhất.
Một ngày nọ, đứa con trai của ông chủ trườngkhông hiểu sao lại “đái dầm” trong lớp. Thằng nhóc láu cá này cố tình làm đổchai nước lên quần để phi tang vụ việc. Thầy phát hiện ra, kéo tai nó đứng lên,“hừm” một tiếng, rồi nói: “Trò tinh ranh quỷ quái lắm. Có khôn nhưng chưa cóngoan. Tại sao trò không xin phép ra ngoài. Ta đâu có cấm. Mà nếu như đã lỡ đáirồi, cứ thành thực báo lại, ta đâu có trách phạt. Ta phạt trò hai thước về tộiche giấu hèn nhát. Hèn nhát vốn đã có mùi, che giấu hèn nhát càng nặng mùi hơn,rõ chưa!”. Giọng thầy không cao, không thấp. Không nhỏ, không to. Người nghethấy như tiếng nói của thầy cho riêng mình. Tiếng của thầy không cho mọi người,dành cho riêng từng người.
Cuộc đời của thầy là một bi kịch mang màu sắccổ điển Á Đông. Một chuỗi dài đau khổ, dằn vặt. Thầy là một cậu ấm sinh ra trongnhà giàu nhưng đơn độc. Nhà chỉ có một mình thầy. Hai lần lấy vợ đều đổ vỡ. Lầnthứ nhất, hai năm vợ không sinh con bị mẹ thầy đuổi đi. Lần thứ hai vợ sinh contrai nhưng lại ngoại tình với một tay buôn chuyến. Trước khi giải phóng Hà Nội,vợ thầy đem con cùng gã buôn chuyến trốn vào Nam. Mẹ thầy lên cơn huyết áp cao,chết không kịp đưa tới bệnh viện. Lúc ấy, thầy vẫn như một đứa trẻ to xác, khôngnghề nghiệp. Nửa năm trời, thầy như người mất hồn. Suốt ngày đi lang thang trênphố tìm con. Hai lần bị xe đụng, một lần tự rơi xuống sông Hồng. Lần nào thầycũng được trẻ em cứu chữa đưa về.
“Đó là số phận. Tôi phải sống để nuôi dạy trẻem!”. Thầy nói vậy và xin chính quyền làm nghề dạy học. Lúc bấy giờ, người cóbằng Díp nôm trường Pháp như thầy không có nhiều. Nhưng do thầy chưa qua lớp sưphạm và cái chính là lý lịch (vợ con đi Nam) nên các trường công lập không nhậnthầy. Thầy phải dạy ở trường tư. Khi tôi vào học, thầy dạy được mộtnăm.
Năm 1960, tôi từ biệt thầy về quê. Cũng trongnăm đó, các trường tư thục không còn nữa. Những tưởng sẽ không bao giờ gặp lạithầy. Nhưng dường như có duyên nợ với thầy. Khi biết chuyện thầy phải trả tiềnhọc phí cho tôi suốt một năm học, cha tôi dẫn tôi đến nhà thầy để trả tiền và tạơn. Thầy kiên quyết không nhận tiền, nhỏ nhẹ khoan thai nói với tôi: “Thầy sốngmột mình, buồn lắm, có dịp lên Hà Nội em đến thăm thầy là đượcrồi!”.
Có lẽ trong cõi nhân gian này, hiếm có ngườinặng lòng với học sinh như thầy. Không được đứng lớp dạy học, thầy có thể làmcông chức hay những công việc khác ở ngành văn hóa thông tin, nhưng thầy năn nỉxin làm lao công ở trường cấp 1.
Không một lao công, tạp dịch nào mẫn cán vàsay mê với công việc như thầy. Không một người nào yêu quý học sinh như thầy.Gặp đứa trẻ mặc áo rách, thầy giữ lại khâu vá áo cho nó. Đứa nào thiếu áo ấm,sách giáo khoa, thầy về bán đồ đạc ở nhà lấy tiền mua cho chúng. Đứa nào dép hưthầy sửa giùm. Thầy lấy các tập vở cũ, ngâm nước gạo cho mực viết nhạt đi để chonhững học sinh nhà nghèo thiếu tập vở. Đứa nào học yếu thầy dạy kèm. Cách dạycủa thầy rất hiệu quả. Có đứa từ kém nhất lớp, sau ba tháng thành giỏi nhất lớp.Thầy luôn đeo bên mình hòm thuốc gia đình. Trẻ nào bị ngã, đau bụng hay trúnggió đều được thầy chăm sóc tận tình...
Tôi biết về thầy cũng chỉ đến vậy. Năm 1970,trong kỳ nghỉ phép 5 ngày trước khi đi B, tôi đến thăm thầy. Ở tuổi 50 nhưngthầy già và hom hem như người 70. Nhà thầy trống rỗng. Sập gụ, tủ chè, bàn khảmxà cừ, tủ gương, giường tây... lớp thì bán, lớp thì cho không còn nữa. Tài sảncủa thầy lúc đó chỉ còn ngôi nhà 1 trệt 1 lầu, chiếc tủ thờ, chiếc giường cánhân và chiếc radio chạy pin to như thùng cắt tóc. Thầy buồn rầu nói: “Có ở nhàđâu. Thầy vẫn giữ trường chờ học sinh sơ tán trở về”. Ít khi thầy nấu cơm ăn.Ngày nào cũng ăn mì luộc. Mỗi ngày hai nắm, ăn với canh rau do thầy trồng ởtrường.
Tôi tặng thầy chiếc áo ấm, đôi giày cao cổTrung Quốc. Thầy tặng tôi cuốn truyện “Những vì sao” của Anphôngxơ Đôđê, bảo:“Cuốn sách này giúp em khám phá thế giới và khám phá chính mình. Làm người anhhùng đã khó, làm người nhân hậu còn khó hơn. Thầy chỉ mong em làm người nhânhậu”.
Tôi muốn ngủ lại trong nhà thầy một đêm. Thầynói: - Thầy phải đến trường. Quen rồi, chỗ lạ không ngủ được.
Hỏi trên thế gian này, còn nỗi buồn nào sâunặng hơn nỗi buồn nhà của mình là nơi xa lạ. Nước mắt tôi ứa ra. Tự nhiên thế.Thầy cười bảo: - Con trai thầy bằng tuổi em. Nếu cơ duyên đưa đẩy em gặp nó, hãynói với nó cuộc sống chỉ có ý nghĩa nếu có ích cho người khác. Sống vô ích thìchẳng nên sống làm gì...
Tôi không ngờ, đấy là lần cuối cùng tôi gặpthầy. Năm 1972, trong trận bom B52 của Mỹ rải thảm, ngôi trường bị phá nát, vùithầy trong gạch vụn. Thầy chết, trong tay vẫn nắm chặt chiếc bánh mì luộc đangăn dở. Nghe nói, đưa tiễn thầy tới nghĩa trang có rất đông trẻ em đi theo quantài khóc lóc thảm thiết.
Sau ngày 30-4-1975, đất nước hòa bình, thốngnhất, Hội phụ huynh học sinh và hàng xóm trong khu phố làm đơn đề nghị Phònggiáo dục đưa thầy vào danh sách thầy cô giáo đã hy sinh trong chiến tranh. Khôngđợi ngành giáo dục trả lời: Khi cải táng làm “nhà mới”, mọi người khắc bia mộ,ghi danh “thầy giáo” cho thầy.
Đã có rất nhiều người tìm kiếm tung tích vợ,con thầy. Nhiều năm trôi qua vẫn không thấy dấu vết gì. Dường như họ đã biến mấtkhỏi trần gian khi rời khỏi Hà Nội năm ấy...
TRẦN VĂN TUẤN