Trong bối cảnh toàn cầu hóa thương mại, ngày càng nhiều các hiệp định thương mại tự do được ký kết. Điều này tạo động lực cạnh tranh, thúc đẩy tiềm lực phát triển của ngành sản xuất trong nước. Tuy nhiên, chúng cũng tạo ra những áp lực và khó khăn đáng kể cho các doanh nghiệp nội địa nếu không được sự can thiệp hoặc hỗ trợ kịp thời. Không phải ngẫu nhiên, bên cạnh các thỏa thuận mở cửa thị trường, WTO vẫn cho phép các quốc gia thành viên được áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại như công cụ bảo vệ ngành sản xuất trong nước trước sức ép nhập khẩu, và tự vệ chính là một trong 3 trụ cột của phòng vệ thương mại.
Thép là một trong số những mặt hàng được Bộ Công thương áp dụng biện pháp tự vệ. Ảnh: Cao Thăng
Áp dụng các biện pháp tự vệ (BPTV) được hiểu là việc quốc gia nhập khẩu tạm thời áp dụng một hoặc một số rào cản thương mại nhằm hạn chế luồng hàng nhập khẩu khi có sự gia tăng nhập khẩu một cách đột biến, không thể lường trước, gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong nước. Tuy nhiên, mục đích cuối cùng của BPTV là điều chỉnh cơ cấu và tăng cường sự cạnh tranh, không phải để hạn chế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Do đó, nếu việc áp dụng BPTV dẫn đến tâm lý ỷ lại, thụ động, tạo ra sức ì và trì trệ trong công tác nghiên cứu sản xuất của bản thân doanh nghiệp nội địa thì được xem là không hiệu quả.
Hiện nay, khung pháp lý về tự vệ thương mại của WTO mang tính khái quát rất cao, chỉ bao gồm các quy định mang tính nguyên tắc, đòi hỏi các quốc gia khi áp dụng không chỉ dựa vào câu chữ của quy định, mà còn phải xem xét cả những nội dung giải thích và làm rõ của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm của WTO thông qua hệ thống án lệ. Trong khi đó, việc nghiên cứu và áp dụng án lệ vẫn còn khá mới mẻ đối với nước ta. Khung pháp lý của Việt Nam về tự vệ thương mại cũng vẫn còn sơ khai. Do đó, để có thể đảm bảo rằng việc áp dụng BPTV được thực hiện phù hợp với thông lệ quốc tế và hạn chế rủi ro bị các nước khác khởi kiện, Việt Nam bắt buộc phải có sự đánh giá khách quan và toàn diện về các điều kiện tự vệ. Không đơn thuần dựa vào nội luật mà còn phải có sự am hiểu sâu sắc về các hiệp định mà Việt Nam là thành viên.
Lưu ý, khi áp dụng BPTV, đối tượng gánh chịu thiệt hại lớn nhất vẫn là người tiêu thụ hàng hóa. Trong một số trường hợp, hàng hóa nhập khẩu có chất lượng tốt hơn hàng hóa nội địa nhưng vẫn được bán với giá rẻ hơn (do sự tiên tiến về công nghệ, trình độ kỹ thuật và cung cách quản lý khoa học), được người tiêu dùng tin cậy nên thị phần và sản lượng hàng nhập khẩu tăng lên nhanh chóng qua từng năm. Khi đó, việc áp dụng BPTV sẽ khiến giá của bản thân hàng hóa đó bị đẩy lên cao, kéo theo sự tăng giá của các ngành sản xuất có liên quan, gây ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích chính đáng của người tiêu thụ và hàng loạt những hệ lụy khác về kinh tế - xã hội. Do vậy, sử dụng quyền tự vệ hợp lý, hợp thời điểm là vấn đề rất cần được quan tâm, nó chỉ phát huy ý nghĩa thật sự khi được quyết định sử dụng trên kết quả đánh giá khách quan và toàn diện về thực trạng ngành sản xuất nội địa.
NGUYỄN VĂN DIỆU