Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa hoàn thành cập nhật kịch bản biến đổi khí hậu (BĐKH) và nước biển dâng năm 2015. Kịch bản này sẽ được Bộ Tài nguyên và Môi trường chính thức công bố trong thời gian tới (cập nhật trong năm 2015 nhưng sẽ công bố trong 2016). Kịch bản này được xây dựng trên cơ sở kế thừa, bổ sung kịch bản công bố năm 2012 nhưng phiên bản năm 2015, về cơ bản có nhiều điểm mới quan trọng hơn so với các phiên bản cũ.
Theo kịch bản, Kiên Giang là tỉnh có nguy cơ ngập nặng nhất với 75% diện tích bị ảnh hưởng
Nhiều điểm mới
Đầu tiên phải kể đến là việc cập nhật các phát hiện mới trong Báo cáo đánh giá lần thứ 5 của Ban liên chính phủ về BĐKH toàn cầu (IPCC). Quá trình tính toán cũng sử dụng các kết quả cập nhật nhất của mô hình khí hậu toàn cầu, sử dụng phương pháp thống kê để hiệu chỉnh kết quả tính toán các mô hình nhằm phản ánh điều kiện cụ thể của địa phương và giảm sai số hệ thống của mô hình. Phiên bản năm 2015 cũng xây dựng kịch bản BĐKH chi tiết đến cấp huyện, kịch bản nước biển dâng đến cấp tỉnh, bản đồ nguy cơ ngập ứng với mực nước biển dâng chi tiết đến cấp xã; đặc biệt là xây dựng kịch bản cho các đảo, quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Kịch bản này cũng cung cấp một số yếu tố cực trị khí hậu để phục vụ cho công tác lập quy hoạch.
Điểm quan trọng nhất là kịch bản mới đã cập nhật số liệu về khí tượng thủy văn và mực nước biển đến năm 2014, từ 150 trạm quan trắc của Trung tâm khí tượng thủy văn quốc gia và số liệu đo đạc từ vệ tinh. Qua đó đã phát hiện một số biểu hiện cụ thể của BĐKH tại Việt Nam, chẳng hạn nhiệt độ trung bình có xu thế tăng trên phạm vi toàn quốc: từ năm 1990 nhiệt độ tăng trung bình 0,39°C/năm nhưng gần 10 năm trở lại đây mức tăng đã lên 0,44°C/năm. Lượng mưa trung bình năm có xu thể giảm ở phía Bắc và tăng ở phía Nam, mưa cực đoan giảm đáng kể ở đồng bằng Bắc bộ nhưng tăng mạnh ở Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Thêm vào đó, hạn hán xảy ra thường xuyên hơn trong mùa khô, bão mạnh có xu hướng tăng, số ngày rét đậm - rét hại có xu thế giảm nhưng xuất hiện các đợt rét dị thường. Hiện tượng El Nino vừa qua là một ví dụ điển hình cho biểu hiện sự dị thường của thời tiết.
Về mực nước biển dâng, số liệu quan trắc cho thấy khu vực ven biển Nam bộ tăng mạnh nhất: 5,6mm/năm, tiếp theo là ven biển Trung bộ: 4mm/năm, thấp nhất là ven biển vịnh Bắc bộ: 2,5mm/năm.
Kiên Giang ngập nặng nhất
Từ những cơ sở này, Bộ TN-MT đã xây dựng kịch bản cập nhật về BĐKH, nước biển dâng. Theo đó, đến cuối thế kỷ 21, nhiệt độ ở tất cả các vùng đều tăng, cao nhất là khu vực phía Bắc từ 1,9 - 2,4°C, phía Nam từ 1,7 - 1,9°C. Lượng mưa trung bình năm có mức tăng phổ biến từ 5% - 15%, riêng một số tỉnh ven biển đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ, Trung Trung bộ có thể tăng trên 20%. Số ngày nắng nóng (nhiệt độ trên 35°C) có xu thế tăng, nhiều nhất là ở Bắc Trung bộ.
Mực nước biển dâng cao nhất ở khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa (kịch bản thấp là 58cm và kịch bản cao là 78cm), thấp nhất ở khu vực Móng Cái đến Hòn Dáu (kịch bản thấp là 53cm và kịch bản cao là 72cm). Tuy vậy, nguy cơ ngập đối với những đảo tự nhiên thuộc quần đảo Trường Sa là không lớn, cụm đảo Hoàng Sa có nguy cơ ngập lớn hơn, nhất là tại cụm đảo Lưỡi Liềm và Tri Tôn. Những cụm đảo có nguy cơ ngập lớn là Vân Đồn, Côn Đảo và Phú Quốc. Đối với diện tích đất liền, khu vực có nguy cơ ngập cao nhất là ĐBSCL với gần 40% diện tích, nếu mực nước biển dâng 100cm, trong đó Kiên Giang là tỉnh ngập nặng nhất với 75% diện tích tự nhiên. Đứng thứ hai sẽ là TPHCM với 17,84% diện tích bị ngập. Đồng bằng sông Hồng có thể bị ngập khoảng 16% diện tích, trong khi các tỉnh ven biển miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận chỉ ngập khoảng 1,47% diện tích.
17,84% diện tích TPHCM có nguy cơ ngập. Ảnh: Duy Trương
Không nên đầu tư dàn trải
Bộ TN-MT cũng nhấn mạnh, kịch bản BĐKH và nước biển dâng luôn tồn tại những điểm chưa chắc chắn vì còn phụ thuộc vào việc xác định các kịch bản phát thải khí nhà kính (sự phát triển kinh tế, mức tăng dân số và mức độ tiêu dùng của thế giới, vấn đề chuyển giao công nghệ…), những hiểu biết còn hạn chế về hệ thống khí hậu toàn cầu và khu vực, quá trình tan băng... Do đó, khi sử dụng nên tham vấn ý kiến chuyên gia khí hậu và các chuyên gia khác để xác định các giá trị cũng như khoảng biến đổi phù hợp nhất để sử dụng trong quá trình lập kế hoạch. Việc sử dụng kịch bản trong đánh giá tác động và xây dựng các giải pháp ứng phó cần được xem xét và lựa chọn phù hợp với từng ngành, lĩnh vực và địa phương với các tiêu chí về tính đặc thù, tính đa mục tiêu, tính bền vững, tính khả thi… Đối với các địa phương, cần sử dụng các mô hình thủy văn, thủy lực và các mô hình đánh giá tác động nhằm cung cấp những thông tin đầu vào quan trọng khác như sự thay đổi chế độ dòng chảy, ngập lụt, xâm nhập mặn, nước dâng do bão, biến đổi đường bờ… phục vụ xây dựng và triển khai kế hoạch hành động.
Khuyến cáo chung cho các ngành, các địa phương là việc triển khai, xây dựng và thực hiện các giải pháp ứng phó với BĐKH không nhất thiết phải tiến hành đại trà ở quy mô thế kỷ, mà cần phải có sự phân kỳ thực hiện, đặc biệt là phải xác định được mức độ ưu tiên dựa trên nhu cầu thực tiễn, nguồn lực có được trong từng giai đoạn để lựa chọn kịch bản phù hợp nhất. Bên cạnh đó, tại Hội nghị toàn cầu về BĐKH năm 2015, các quốc gia trên thế giới đều thống nhất hành động để giữ cho nhiệt độ toàn cầu vào cuối thế kỷ tăng ở dưới mức 2°C. Do vậy, Bộ TN-MT cho rằng nên áp dụng kịch bản phát thải thấp đối với các tiêu chuẩn thiết kế cho các công trình mang tính không lâu dài và các quy hoạch, kế hoạch ngắn hạn; chỉ các công trình mang tính vĩnh cửu, các quy hoạch, kế hoạch dài hạn mới áp dụng kịch bản phát thải cao.
Sẽ tiếp tục cập nhật vào năm 2018 Hội nghị toàn cầu về BĐKH năm 2015 đã đề nghị IPCC vào năm 2018 công bố báo cáo đặc biệt về kịch bản nồng độ khí nhà kính và các tác động khi nhiệt độ toàn cầu tăng 1,5°C so với thời kỳ tiền công nghiệp. Vì thế, Việt Nam cũng sẽ có các cập nhật tương ứng. |
KHÁNH LÊ