Tổ chức đám cưới như thế nào?

Tổ chức đám cưới như thế nào?

Đám cưới hiện nay nên tổ chức như thế nào? Có cần khôi phục nghi lễ truyền thống không? Chọn thực đơn, âm nhạc ra sao?... Chúng tôi đã ghi nhận một số ý kiến của các nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề này.

  • Nhà văn SƠN NAM: “Hai bên đồng thuận là chính”
Tổ chức đám cưới như thế nào? ảnh 1

Nghi lễ và thể thức hôn nhân của người Việt, theo các tài liệu ghi chép được từ thế kỷ 17, trước khi đôi trai gái thành hôn có ba nghi lễ: lễ hỏi (lễ đính hôn), cha mẹ chàng trai mang lễ đến nhà gái, nếu nhà gái nhận lễ là hôn nhân đã được quyết định; kế đến là lễ cưới, bà con hai họ dự tiệc tại nhà gái, quan khách tham dự cũng có quà tặng cho đôi uyên ương; cuối cùng là lễ cheo, quy tụ các hào mục làng bên nhà gái (nhà trai) để thưa rằng: xin chứng giám cho việc lấy cô gái (chàng trai) này làm vợ (làm chồng).

Đó là các lễ chính, thực tế còn có rất nhiều lễ như: Lễ nghi hôn (hai bên thảo luận, quyết định việc hôn nhân); Lễ định thân (định quan hệ thông gia chính thức); Lễ nạp chưng (trao lễ vật của nhà trai) và Lễ nghinh tân (rước dâu). Các nghi thức trên còn phân ra thành nhiều lễ phụ (nhưng quan trọng) khác.

Ở Lễ định thân, cha mẹ họ hàng nhà trai sẽ cáo (thông báo) với ông bà tổ tiên ở từ đường, sau đó đến nhà gái làm Lễ vấn danh (hỏi tên) cùng với lễ vật. Sau khi về cũng phải cáo với ông bà tổ tiên những việc đã làm. Lễ vật trong lễ hỏi của nhà trai gồm 1 con heo, xôi rượu, cau trầu, trà bánh.

Ở lễ này, không cần thiết sự có mặt của chú rể nhưng nếu có anh ta phải bái lạy theo nghi thức, ở nhiều vùng, đồng thời với lễ hỏi còn làm lễ tơ hồng (Nguyệt lão) với bàn thờ bày trên một gian nhỏ đặt trong phòng hoặc ở sân nhà, lễ vật là 1 con gà tơ, xôi gấc, 100 miếng trầu, 3 chung rượu.

Tựu chung, nghi thức hôn lễ của người Việt  xưa gồm có 6 lễ tất cả. Nhưng ở mỗi lễ, tùy theo tôn giáo và phong tục, gia phong… còn có những lễ nhỏ khác với nghi thức và lễ vật rất khắt khe và tốn kém. Nhưng đây là những lễ chính, nhiều nơi còn lồng ghép các yếu tố mê tín, dị đoan nên có thêm những nghi lễ rất phiền toái.
 
Tuy nhiên, việc duy trì những nghi lễ này trong thời đại hiện nay đã không còn phù hợp. Chỉ cần hai nghi lễ là lễ hỏi và lễ cưới là đủ.

 Nếu ngày xưa lễ cưới thường tổ chức vào lúc kết thúc mùa vụ thì ngày nay nên chọn ngày nghỉ, mùa ít mưa, mọi người đều rảnh rỗi để chia vui với cô dâu, chú rể. Tiệc đãi khách, nếu có điều kiện thì làm cả ở nhà trai và nhà gái (thường ở vùng nông thôn là chủ yếu), còn không thì đãi một lần ở nhà hàng cho tiện (và khỏe) khỏi mất công dọn dẹp, để bà con, bạn bè hai họ có dịp làm quen, tạo sự thân mật.

Nhưng cũng phải chú ý, bố trí khách ngồi phải cùng cỡ tuổi, cùng đẳng cấp, tránh xô bồ. Người tiếp khách phải lịch sự, bặt thiệp, biết sắp chỗ ngồi cho người lớn, bà con họ hàng và bạn bè hai bên, tránh việc bố trí quá “chỏi” nhau.

Người lịch sự, tự trọng cũng phải biết đi đúng giờ đã ghi trên thiệp mời, tránh giờ “dây thun”. Lưu ý, thiệp mời ghi “anh chị, ông bà” là gia chủ đã “cân đong” số lượng khách tham dự nên tránh dẫn theo quá nhiều trẻ nít, gây khó xử cho người tổ chức.

QUỐC ĐỊNH (ghi)

  • BÙI THỊ SƯƠNG - Trưởng bộ môn Kỹ thuật chế biến món ăn (Trường THNV Du lịch và khách sạn TPHCM): “Cần xây dựng thực đơn cho đám cưới Việt”
Tổ chức đám cưới như thế nào? ảnh 2

Một đám cưới ở Nhà hàng Thủy Tạ - Đầm Sen. Ảnh: T.L

Tùy theo đối tượng khách mà ta xây dựng thực đơn: Bắc, Trung, Nam hay kiểu Hoa, kiểu Âu... để thỏa mãn khẩu vị đa dạng của thực khách.

Cũng có thể chọn lọc các món ăn đặc sắc của ba miền phối hợp trong cùng một thực đơn. Ví dụ: Chọn khai vị kiểu Bắc, món thưởng thức kiểu Huế, món chính và tráng miệng Nam bộ (hoặc ngược lại)...  Cơ cấu của một thực đơn Việt phải có đầy đủ 4 nhóm.

Nhóm 1: gồm các món ăn khai vị nguội và nóng.

Nhóm 2: các món ăn chơi, thường là hải sản (ở nhóm 1 và 2, lượng thức ăn chỉ đủ để thưởng thức và không kèm tinh bột).

Nhóm 3: nhóm chính để ăn no, vì thế bắt buộc phải dọn kèm món tinh bột, đa phần là các món thịt nấu ăn kèm bánh mì, hoặc lẩu, mì xào, cơm chiên, cơm hấp…

Nhóm 4: các món tráng miệng có thể là trái cây, thạch, chè, kem, bánh ngọt, cơm rượu... Về căn bản là như vậy, tuy nhiên có thể khác biệt một chút, ví dụ bàn tiệc Bắc thường có 6 khách thay vì 10 đến 12 khách như ở Nam bộ và số lượng món ăn có nhiều hơn, thêm các món truyền thống như giò chả, gà luộc, xôi gấc, bánh chưng…

  • Nhạc sĩ LÊ QUANG: “Nhạc đám cưới phụ thuộc vào nhà tổ chức”

Trước đây, chúng ta cũng có tổ chức những cuộc thi sáng tác ca khúc về đề tài đám cưới, sau đó có tổ chức thu âm, phát hành băng đĩa nhưng không để lại dấu ấn do người ta vẫn thích những bài đã quen thuộc trước đây.

Bên cạnh đó, phần lớn những bài hát đám cưới bây giờ do khách dự tiệc tự lên hoặc được mời lên biểu diễn nên họ cũng hát theo sở thích của mình. Theo tôi, hiện nay có nhiều nơi tổ chức đám cưới phần âm nhạc khá ổn, nhất là trong phần làm lễ.

Tuy nhiên, còn không ít nơi chưa chú trọng đến phần nhạc nên chưa tạo được hiệu quả để làm tăng thêm sức hấp dẫn, nét đặc sắc của một tiệc cưới.

Nói chung, phần âm nhạc phụ thuộc vào người tổ chức, nếu có ý tưởng tốt thì đôi khi chỉ cần một bài hát sử dụng cho suốt cả buổi tiệc mà vẫn thấy hay và phù hợp.

KHẮC THI (ghi)

Tin cùng chuyên mục