
Có lẽ hiếm có nơi nào, một ngôi trường cấp I khang trang, đẹp đẽ lại chỉ có… 49 học sinh theo học. Không phải vì học sinh bỏ học mà vì “hiếm trẻ con”. Giáo viên dạy ở đây được tiếng là “sướng”, nhưng để đến được ngôi trường to đẹp này họ phải vượt qua sông với bao trắc trở, hiểm nguy. Trường “mang tiếng” là gần trung tâm huyện lỵ nhưng lại cách ly chẳng kém gì một số trường vùng xa, vùng sâu, nhất là vào mùa mưa bão. Đó là Trường Tiểu học Xuân Giang II, nằm trên làng nổi Hồng Lam hạ nguồn sông Lam (thuộc xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh).
Chuyến đò theo “giờ cô giáo” ra làng nổi

49 học sinh trong ngôi trường to và đẹp.
Tôi đến bến đò khá sớm để sang làng nổi, nhưng vì lệch giờ nên đành đợi hơn một tiếng đồng hồ. Ngồi tán gẫu với mấy người ở bến đò mới biết, muốn đi đò không mất thời gian phải canh theo “giờ cô giáo”.
Nghe khá lạ tai nên tôi hỏi, thì được biết “giờ cô giáo” nghĩa là giờ các cô giáo từ trong “đất liền” sang đò dạy học và giờ các cô về. Đò ở đây chủ yếu phục vụ các cô giáo, còn người dân cũng ít khi qua lại.
Vào giờ cô giáo đi từ bên “đất liền” ra làng nổi dạy học thì cũng là giờ một số em học sinh cấp 2 và 3 của làng nổi lên đò sang “đất liền” đi học.
Chuyến đò lỡ chuyến của tôi đi là chuyến dành cho các bà, các chị đi chợ bên trung tâm huyện Nghi Xuân về. Rất may trên chuyến đò này tôi gặp được ông Nguyễn Khương, Trưởng thôn Hồng Lam.
Ông bảo thôn ông còn nghèo lắm. Mặc dù diện tích đất tự nhiên của thôn trên 400 ha nhưng không làm được gì cho ra trò ra trống. Vì đất phèn là chủ yếu nên người dân thường sinh sống bằng nghề trồng đay, trồng lạc, một số ít đánh bắt cá... Ngay cả nước ngọt cũng chỉ một vài hộ ở “trung tâm” là có chút ít để dùng, còn lại phải hứng nước mưa để nấu ăn hoặc lấy từ giếng lên lọc qua rất nhiều lần mới tắm giặt được.
Thôn Hồng Lam hiện có 260 hộ với gần 1.000 nhân khẩu, trong đó có 70 hộ nghèo. Hồng Lam là cái gò nổi hạ nguồn sông Lam nên cứ mỗi mùa mưa lũ là mỗi mùa cơ cực. Đơn cử như trận lũ năm vừa qua, cả thôn tưởng chừng như chìm và trôi theo nước sông Lam từ thượng nguồn đổ về.
Chính vì làm ăn khó khăn nên người dân nơi đây, nhất là những người trẻ tuổi đã kéo nhau vào miền Nam, Tây Nguyên tìm kế sinh nhai, chỉ một số ít người trẻ tuổi trụ lại với làng nổi. Ông Khương cười nói: “Có lẽ xóm tui giờ người nhiều tuổi “đánh bay” bọn ít tuổi. Ngay cả cái trường tiểu học xóm tui cũng có lẽ là nhất vùng, không khéo nhất nước. Ai đời trường vừa to vừa đẹp mà chỉ có 49 học sinh. Không phải bỏ học đâu, chuyện học xóm tui không kém cạnh nơi khác, nhưng vì trẻ con chỉ còn ở nhà có thế thôi”.
Trường to, trò ít
Cuốc bộ loanh quanh, lần tìm một hồi tôi cũng đến được trường. Đang giờ ra chơi, một “nhúm” học sinh đang nô đùa cùng nhau. Thấy người lạ chúng ào lại ngó nghiêng, nhất là khi tôi đưa máy ảnh lên chụp. Cô giáo Trần Thị Oanh, Hiệu trưởng của trường cười rất tươi: “Chẳng mấy khi các cháu mới được tiếp xúc với người lạ”.
Ngôi trường khang trang này được xây dựng từ năm 2002, do Bộ Công an đầu tư. Trường được xây 2 tầng với 8 phòng kiên cố, đẹp, trang bị đầy đủ các trang thiết bị dạy học… Trang bị to đẹp như vậy trong khi học sinh của trường quá ít, khiến các cô giáo ở đây đôi khi thấy… ngượng.
Trường có 8 phòng nhưng thừa đến 3 phòng. Bàn ghế ban đầu đóng nhiều nhưng càng ngày càng phải cất bớt đi. 8 giáo viên của trường (trong đó chỉ có 1 thầy) thì giáo viên đảm trách khối này nhưng biết chuyện thường ngày của… bố mẹ học sinh khối kia.
Cách đây chỉ 6-7 năm thôi, mỗi khối học ở đây cũng có 30-35 em, vậy mà năm ngoái cả trường còn 56 em, đến năm nay chỉ còn 49 em. Trong số 49 học sinh này lớp 1 có 11 em, lớp 2 là 10, lớp 3 là 15, lớp 4 là 5 và lớp 5 là 8. Cứ lâu lâu, có bố mẹ học sinh đi làm ăn xa về, nếu đã có cuộc sống ổn định thì “rước” con đi theo.
Có lẽ hiếm có ngôi trường nào mà cái nghĩa “cô giáo như mẹ hiền” lại đúng đến thế. Vì ít học sinh nên cô thầy nào cũng hiểu tỉ mỉ gia cảnh của từng em. Việc quan tâm, uốn nắn trong học tập, thấu hiểu tình cảm từng học sinh được các cô thực hiện theo một lẽ tự nhiên. Giờ ra chơi, đám học sinh ào vào phòng giáo viên níu áo kéo tay các cô cho tôi thấy phần nào điều đó.
Nhưng có những môn học các em học sinh “mang tiếng gần trung tâm” này phải chịu thiệt thòi, đó là môn ngoại ngữ và mỹ thuật. Nhà trường đã đề xuất lên Phòng Giáo dục huyện về vấn đề này. Có đợt nghe nói có giáo viên về, nhưng đợi mãi không thấy, tìm hiểu mới biết khi ấy đang mùa mưa bão nên giáo viên “ngán” không muốn đến trường. Chính vì vậy các cô thầy nơi đây đã phải cố gắng “biết gì dạy nấy” cho học trò của mình.
Được dạy tại ngôi trường như vậy không còn gì phải phàn nàn. Nhưng các cô cũng có những băn khoăn nho nhỏ. Chẳng hạn như vì học sinh ít quá nên khi muốn xin kinh phí để củng cố lại bể hứng nước mưa (vì nước phèn không thể sử sụng), làm lại khu vệ sinh cho học sinh… cũng phải “xét sau”, vì các trường khác nhiều học sinh hơn.
Dạy lớp có 4 học sinh nhưng cũng phải soạn giáo án như dạy 40 em. Mỗi ngày các cô phải đi đò ít nhất 2 lần nhưng vẫn chưa được trang bị áo phao cứu sinh. Tiền gửi xe ở bến đò để sang sông dạy học cũng lấy từ lương ra tự trả…
Mặc dù nằm gần trung tâm huyện Nghi Xuân, nhưng trường này “cách ly” trung tâm không kém gì một số trường vùng sâu vùng xa. Vào mùa mưa bão điều này càng thấy rõ, nhiều đợt giáo viên phải ở lại luôn bên trường vì việc đi về qua đò vô cùng nguy hiểm.
Các cô giáo đã có đề xuất lên cấp có thẩm quyền xin thêm trợ cấp về những khó khăn mình gặp phải, nhưng vẫn đang chờ xét duyệt. Cô Hiệu trưởng Trần Thị Oanh cười: “Có lẽ phải chờ xem trường chúng tôi thuộc diện vùng nào, còn trước mắt cứ hãy gọi trường chúng tôi là trường đặc biệt của làng nổi”.
DUY CƯỜNG