Trung bình mỗi ngày, TPHCM phát sinh khoảng 8.200 - 8.500 tấn chất thải rắn sinh hoạt, với tốc độ tăng hàng năm khoảng 6% - 8%. Trong đó khối lượng chất thải rắn sinh hoạt thu gom được khoảng 7.000 - 7.100 tấn/ngày, phần còn lại được người dân và đội ngũ thu gom, buôn bán phế liệu phân loại và sử dụng như nguồn nguyên liệu mới. Đó là chưa kể lượng chất thải rắn công nghiệp, chất thải rắn y tế, chất thải rắn xây dựng và bùn thải các loại, trong đó có cả chất thải nguy hại.
Theo báo cáo từ các quận - huyện, tổng số phí vệ sinh và phí bảo vệ môi trường đã thu trong năm 2011 là 169,8 tỷ đồng, trong đó chi trả chủ yếu cho người thu gom chất thải rắn từ các nguồn thải 136,6 tỷ đồng và nộp ngân sách 33,2 tỷ đồng, bao gồm phí vệ sinh 25,7 tỷ đồng và phí bảo vệ môi trường 7,5 tỷ đồng. Như vậy so với kinh phí mà ngân sách chi trả, có thể thấy rằng, số phí thu được hiện nay quá thấp và chỉ bù đắp được một phần rất nhỏ ngân sách của TP. Kết quả này cũng nói lên rằng, công tác thu phí vệ sinh và phí bảo vệ môi trường chưa được các cấp xem trọng, chưa thực sự tổ chức thu quyết liệt. |
Ngân sách thành phố vẫn chi trả phần lớn
Để xử lý toàn bộ số rác trên các năm qua, thành phố (TP) chi trả toàn bộ cho dịch vụ vệ sinh môi trường của TP gồm quét dọn vệ sinh đường phố, vỉa hè và khu công cộng, thu gom trên đường phố, trung chuyển và vận chuyển, xử lý và chôn lấp, bao gồm toàn bộ vốn đầu tư xây dựng công trình (bãi chôn lấp, đường giao thông và các công trình kỹ thuật hỗ trợ), máy móc, thiết bị, xe vận chuyển và chi phí vận hành (nhân công, xăng dầu, điện nước, hóa chất…).
Riêng chi phí thu gom tại nguồn từ các chủ nguồn thải (hộ gia đình, văn phòng, cơ sở kinh doanh…) đến các điểm hẹn hoặc trạm trung chuyển, người dân TP hiện trả trực tiếp cho tổ chức thu gom chất thải rắn (lực lượng rác dân lập, hợp tác xã và các công ty dịch vụ công ích).
Từ cuối năm 2007 đến nay, nhờ thực hiện chương trình Xã hội hóa các dịch vụ công, TP đã không phải đầu tư xây dựng các công trình xử lý chất thải rắn (hàng trăm tỷ đồng mỗi năm) và giảm đáng kể phần ngân sách để đầu tư xây dựng công trình và mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động thu gom và vận chuyển. Thực tế TP đang trả tiền dịch vụ công ích về vệ sinh môi trường đô thị mà người dân đang hưởng cho các công ty cung cấp dịch vụ.
|
Chấn chỉnh lại bộ máy thu phí
|
Để đảm bảo việc thi hành các chính sách kinh tế, xã hội một cách công bằng, từ năm 2002 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 57/2002/NĐ-CP ngày 3-6-2002 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí, trong đó có phí vệ sinh và phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn vì đây chính là dịch vụ được Nhà nước đầu tư và do Nhà nước trực tiếp quản lý.
Từ đó đến nay, Nhà nước đã ban hành rất nhiều văn bản liên quan đến việc thu phí vệ sinh và phí bảo vệ môi trường (Thông số 97/2006/TT-BTC ngày 16-10-2006, Nghị định số 174/2007/NĐ-CP ngày 29-11-2007, Nghị định 59/2007/NĐ-CP ngày 9-4-2007, Thông tư số 39/2008/TT-BTC ngày 19-5-2008…).
Để thực hiện chủ trương trên, năm 2008 TPHCM mới ban hành Quyết định số 88/2008/QĐ-UBND ngày 20-12-2008 về thu phí vệ sinh và phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn thông thường nhằm từng bước thực hiện 2 nguyên tắc bình đẳng giữa các đối tượng trong việc thu phí những dịch vụ về môi trường và “người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Dựa trên tính toán của số hộ dân, cơ sở kinh tế - xã hội, cơ sở công nghiệp trên địa bàn TP và mức phí theo quy định của Bộ Tài chính, phí vệ sinh và phí môi trường có khả năng giảm chi ngân sách hàng năm khoảng 100 - 200 tỷ đồng, thậm chí cao hơn.
Với mục tiêu như trên, từ năm 2008 đến nay, mức phí vệ sinh và phí bảo vệ môi trường tại TPHCM mới dừng lại ở việc bù đắp một phần chi phí này cho ngân sách. Cụ thể là hiện nay, mỗi hộ gia đình chỉ đóng 15.000 – 20.000 đồng/tháng và ngoài hộ gia đình nhóm 1 là 60.000 đồng/chủ nguồn thải, nhóm 2 là 110.000 đồng/chủ nguồn thải và nhóm 3 thu phí theo khối lượng chất thải rắn phát sinh là 420.950 đồng/tấn. Nếu thu đúng và thu đủ thì mỗi hộ gia đình phải đóng 103.503 đồng/hộ và các chủ nguồn thải khác ngoài hộ gia đình phải đóng là 612.131 đồng/tấn chất thải rắn.
Như vậy có thể thấy rằng, với mức thu phí vệ sinh như hiện nay, không chỉ hầu hết người dân TP và các nhóm đối tượng kinh doanh ngoài hộ gia đình thuộc nhóm 1 và nhóm 2 đang được TP bao cấp gần như toàn bộ kinh phí quản lý chất thải rắn của TP mà các đối tượng thuộc nhóm 3 cũng được ngân sách bù đắp một phần rất lớn chi phí cho công tác này.
Thạc sĩ Võ thanh Huỳnh Anh (Sở Tài nguyên - Môi trường TPHCM)