Đồng bằng sông Cửu Long: Vượt khó, tạo thế mới, lực mới

° Phóng viên: Thưa ông, thời gian qua vựa lúa gạo, trái cây, thủy sản lớn nhất cả nước đã thể hiện vai trò của mình như thế nào?
Đồng bằng sông Cửu Long: Vượt khó, tạo thế mới, lực mới

Năm 2012 đánh dấu sự kiện 10 năm thực hiện Nghị quyết 21 của Bộ Chính trị (NQ 21) về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng vùng ĐBSCL. Ông Nguyễn Phong Quang, Phó Trưởng ban Thường trực Ban chỉ đạo Tây Nam bộ đã dành cho Báo SGGP cuộc trao đổi.

Nông dân Long An thu hoạch dưa hấu dịp tết. Ảnh: M.LONG

Nông dân Long An thu hoạch dưa hấu dịp tết. Ảnh: M.LONG

° Phóng viên: Thưa ông, thời gian qua vựa lúa gạo, trái cây, thủy sản lớn nhất cả nước đã thể hiện vai trò của mình như thế nào?

° Ông NGUYỄN PHONG QUANG: Qua 10 năm thực hiện NQ 21, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ĐBSCL có bước chuyển biến và thay đổi lớn. Có thể nói thành tựu hạ tầng là quan trọng nhất. Nguồn vốn đầu tư đã tập trung cho 3 khâu đột phá là giao thông, thủy lợi, giáo dục - đào tạo và y tế, an sinh xã hội. Từ đó, tăng trưởng của vùng gần 12% mỗi năm trong 10 năm qua, quy mô GDP gấp 3,5 lần, thu nhập bình quân đầu người tăng 2,5 lần; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp và tăng dần khu vực 2 và 3. Đó là kết quả sự nỗ lực rất lớn của cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân trong vùng.

Thế mạnh thủy sản phát triển mạnh, góp phần giải quyết việc làm cho khoảng 6 triệu lao động. Một số ngành công nghiệp then chốt như năng lượng, hóa chất, dược phẩm có bước phát triển khá. Nhiều địa phương đã quy hoạch, xây dựng các khu, cụm công nghiệp; hình thành các khu công nghiệp cấp vùng và quốc gia. Bước đầu hình thành trung tâm thương mại cấp vùng ở TP Cần Thơ và các trung tâm cấp tỉnh theo mục tiêu NQ 21 đề ra; các địa phương có đường biên giới với Campuchia đã chú ý khai thác lợi thế kinh tế biên mậu và các khu kinh tế cửa khẩu. Tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2001-2010 tăng bình quân 17,8%/năm, đạt bình quân 4,6 tỷ USD/năm. Cơ sở vật chất phục vụ du lịch được chú trọng đầu tư, nâng cấp, đặc biệt là tại các tỉnh trong Vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL (TP Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau).

° Nhưng thưa ông, ĐBSCL cũng đang đứng trước nhiều thách thức của một nền sản xuất nặng về sản lượng, nhẹ về chất lượng...

° Thực chất đây là yêu cầu “chuyển đổi mô hình tăng trưởng” của vùng. Nhìn tổng thể, kinh tế vùng vẫn còn hạn chế, yếu kém và thiếu bền vững, phát triển chủ yếu dựa vào tiềm năng, lợi thế tự nhiên sẵn có. Hiệu quả kinh tế nông nghiệp bấp bênh, hàm lượng chất xám còn thấp. Đặc biệt cần quan tâm là liên kết vùng, liên kết trong sản xuất, phân phối, tiêu thụ.

Hiện nay sự phối hợp giữa các tỉnh, thành trong vùng chưa tạo thế liên kết để phát huy sức mạnh; việc thực hiện quy hoạch vùng sản xuất theo thế mạnh của từng địa phương còn lỏng lẻo; liên kết “bốn nhà” còn phân tán, kém hiệu quả. Các chính sách hỗ trợ nông dân nhiều khi còn dàn trải, trong khi nguồn lực đầu tư hạn chế dẫn đến hiệu quả của chính sách không cao. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, công tác quy hoạch vùng, quy hoạch tổng thể thời gian qua chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu, quy mô các doanh nghiệp còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của vùng cũng đã làm hạn chế sự phát triển của ĐBSCL.

° Theo ông, ĐBSCL cần phải làm gì để phát huy hết lợi thế, tiềm năng của mình nhằm tạo ra thế và lực mới trong phát triển?

° Cần tăng cường liên kết vùng thực chất, hiệu quả bằng cách triển khai các chương trình, lĩnh vực liên kết cụ thể. Bên cạnh đó, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và nâng cao chất lượng các quy hoạch, kỷ luật, kỷ cương trong thực hiện quy hoạch; đồng thời tích cực, chủ động chuẩn bị ứng phó, thích nghi với điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng… Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành liên quan rà soát để bổ sung các cơ chế, chính sách phù hợp với các sản phẩm chủ lực vùng trình Chính phủ ban hành theo hướng hỗ trợ phát triển sản xuất và tiêu thụ theo chuỗi giá trị các sản phẩm của vùng. Nhân rộng mô hình “Cánh đồng mẫu lớn”, tăng cường xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch dựa trên thế mạnh từng địa phương. Đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng cụm công nghiệp thủy sản quy mô cấp vùng, hình thành Trung tâm Nghề cá nói chung, nhất là các mặt hàng thế mạnh như cá tra, tôm

 Trong 10 năm tới, theo tờ trình của Ban chỉ đạo Tây Nam bộ với Bộ Chính trị, để ĐBSCL phát triển nhanh và bền vững, toàn vùng sẽ tập trung sức để thúc đẩy tăng trưởng GDP ở mức 2 con số; chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực

Minh Trường - Hiệp Thủy

Tin cùng chuyên mục