Gia đình ông Trương Văn Lưu đang ở trong căn nhà cất trên diện tích 175,66m² đất của mình tại ấp Thạnh Lợi C, xã Tân Long, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, “bỗng dưng” trở nên trắng tay vì bị tòa án cấp huyện và cấp tỉnh tuyên buộc phải tháo dỡ, trả đất cho người có đất giáp ranh… Vụ việc đang gây bất bình trong dư luận. Nhiều người dân địa phương tình nguyện đứng ra làm chứng, ký đơn yêu cầu xem xét lại bản án. VKSND tỉnh Hậu Giang cũng có văn bản báo cáo lên VKSNDTC xem xét, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Thực tế một đằng, tòa phán một nẻo
Ngày 17-3-2008, TAND huyện Phụng Hiệp xử sơ thẩm và ngày 10-11-2008 TAND tỉnh Hậu Giang xử phúc thẩm đã phán quyết: Buộc ông Trương Văn Lưu tự tháo dỡ nhà ở và các vật kiến trúc khác trả lại đất cho ông Lê Văn Hoàng 175,66m² (ngang trước 6,15m, ngang sau 5,6m, dài 29m). Phần đất này nằm trong diện tích khoảng 2 công đất mà ông Hoàng đã bán cho bà Đào Thị Thống bằng giấy tay ngày 3-6-2000, trong khi năm 2002, ông Hoàng mới được cấp giấy CNQSDĐ thửa 259, diện tích 2.035m².
Sau khi nghiên cứu hồ sơ, xác minh thực thế, VKSND tỉnh Hậu Giang xác định: Đất mà các đương sự đang tranh chấp có nguồn gốc của ông Trương Văn Phát và bà Lê Thị Chính (cha và mẹ ruột của ông Trương Văn Lưu) với diện tích khoảng 12 công.
Năm 1976, gia đình cắt chia cho ông Trương Văn Tư (anh ruột ông Lưu) 4 công tầm 3m. Năm 1981 (ông Phát đã chết), bà Chính cho ông Lưu 4,4 công tầm nhỏ. Diện tích còn lại được giao cho người con út là Trương Văn Láng sử dụng. Năm 1987, ông Tư cầm cố hết đất cho ông Lưu.
Năm 1998, ông Tư về xin chuộc lại đất nhưng ông Lưu cho rằng đất trước đây đã bán chứ không phải cầm cố và không cho chuộc. Ông Tư khiếu nại, UBND xã Tân Long lập đoàn kiểm tra xác minh, đo đạc thực tế ngày 31-5 và 30-8-2001, xác nhận: Thửa đất tranh chấp giữa ông Tư và ông Lưu có diện tích 5.051m² (bao gồm đất ruộng là 4.630m² (thửa 589), đất thổ cư và đất LNK 421m² (thửa 258).
Bà Đào Thị Thống (cùng các hộ dân khác) có phần đất giáp ranh là người trực tiếp chỉ ranh, chứng kiến việc đo đạc và ký xác nhận các số đo, vị trí đất của ông Tư, ông Lưu vào ngày 31-5-2001.
Ngày 11-12-2002, Thanh tra tỉnh Cần Thơ ban hành Quyết định số 154, giải quyết ông Lưu phải trả lại đất đã cầm cố cho ông Tư. Hai đương sự đã thực hiện quyết định này. Song trong thời gian nhận đất cầm cố của ông Tư, ông Lưu đã đào một con mương (ngang 4,7m dài 27m) lấy đất đắp nền nhà ở.
Sau khi trả lại đất, vì không có chỗ ở nên ông Tư cho ông Lưu sử dụng con mương nói trên (127m²) để san lấp cất nhà (diện tích đất còn lại ông Tư đã chuyển nhượng cho chị ruột là Trương Thị Mến vào năm 2001). Sau đó bà Mến đã cho thêm ông Lưu phần đất kế cận phía trước có chiều ngang 1,45m, ông Láng cho phần đất phía sau có chiều ngang 0,9m, cùng chiều dài chung 29m.
VKSND tỉnh Hậu Giang xác định diện tích đất 175,66m² (ngang trước 6,15m, ngang sau 5,6m, dài 29m) chính là của ông Trương Văn Lưu, không phải là đất của ông Lê Văn Hoàng (đã bán cho bà Thống).
Kháng nghị giám đốc thẩm
Không đồng tình với bản án này, hiện nhiều người dân và những người từng là cán bộ ở ấp Thạnh Lợi C, xã Tân Long, huyện Phụng Hiệp đã đồng loạt ký tên yêu cầu xem xét lại vụ án và tình nguyện làm nhân chứng sống…
VKSND tỉnh Hậu Giang khẳng định: Nếu căn cứ bản án số 21/2008/DSST ngày 17-3-2008 của TAND huyện Phụng Hiệp và bản án số 216/2008/DSPT ngày 10-11-2008 của TAND tỉnh Hậu Giang: buộc ông Trương Văn Lưu tự tháo dỡ nhà ở và các vật kiến trúc khác trả lại đất cho ông Hoàng là không đúng với thực tế. Từ những căn cứ trên, ông Võ Nam Vốn, Phó Viện trưởng VKSND tỉnh Hậu Giang đã chính thức có báo cáo (số 07/CV-VKS-P5) lên lãnh đạo VKSNDTC xem xét, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm…
Huy Phong
VKSND tỉnh Hậu Giang: Việc cấp đất cho ông Lê Văn Hoàng chưa có cơ sở và chính xác Trong quá trình giải quyết vụ kiện trên, TAND 2 cấp huyện Phụng Hiệp và tỉnh Hậu Giang đã căn cứ vào giấy CNQSDĐ của ông Lê Văn Hoàng ngày 3-5-2002 và hồ sơ kỹ thuật đất được lập ngày 5-1-2007 của văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện Phụng Hiệp để buộc ông Trương Văn Lưu trả đất cho ông Lê Văn Hoàng là không phù hợp thực tế. Bởi vì năm 2000, ông Hoàng làm giấy tay bán đất cho bà Đào Thị Thống khi chưa được nhà nước giao quyền sử dụng đất. Năm 2002, ông Hoàng được cấp giấy CNQSDĐ diện tích 2.035m² (thửa 259) không tuân thủ trình tự, thủ tục theo quy định của Luật Đất đai. Cụ thể là: Không thực hiện đo đạc cụ thể, không cắm mốc ranh, không có biên bản xác minh, không có ký giáp ranh tứ cận của các hộ xung quanh… Như vậy việc cấp CNQSDĐ cho ông Hoàng là chưa có cơ sở và chính xác. |