Hình ảnh những mái nhà tranh thưa thớt nằm lúp xúp nơi vùng biên giới ngày nào, nay đã được thay thế bằng những căn nhà kiên cố khang trang, thậm chí đã có vài ngôi biệt thự sân vườn đắt tiền của công nhân mọc lên nằm đan xen màu xanh bạt ngàn cao su, hồ tiêu, cà phê… Sự trù phú của một vùng biên giới đã nói lên sự cố gắng vươn lên không biết mệt mỏi của những công nhân là người dân tộc thiểu số Jrai thuộc Công ty 74 (Binh đoàn 15).
Đại tá Trần Quang Hùng, Giám đốc Công ty 74 nhớ trong ký ức: Năm 1975 tôi được điều động vào địa bàn biên giới huyện Đức Cơ (Gia Lai) nhận nhiệm vụ. Khi ấy mình là lính binh nhì. Từ đường đất, muốn vào được địa điểm có nhiều biệt thự đắt tiền của công nhân ngày nay phải mất hai ngày dùng rựa phát lối mà đi. Ngày ấy, thói quen của người dân tộc thiểu số chỉ dùng tay bốc hốt để ăn, chỉ biết trồng cây lúa “ma” một vụ, đời sống du canh du cư, khốn khổ tứ bề.
Ban đầu, qua những buổi giao lưu văn nghệ với đồng bào rất vui nhộn, đầm ấm nên họ đã làm quen dần. Ban ngày đi làm, tối đến anh em đơn vị đốt đuốc đi vận động bà con người dân tộc thiểu số làm cao su. Muốn đắp đập lấy nước tưới họ không cho vì “Yàng đã cho con suối chảy thì cứ để yên cho nó chảy, không được làm gì hết…”; xây trường học, họ cũng phản đối, không cho lũ trẻ đến trường vì còn suy nghĩ cho rằng: “Lâu nay đói cái bụng thì mới chết chứ đói cái chữ thì chưa thấy ai chết cả?!”. Kiên trì, thuyết phục, miệng nói, tay hướng dẫn họ làm, miết rồi họ cũng quen và đồng ý cùng làm.
Ngày ấy, đất đai rộng bạt ngàn nhưng cằn cỗi, rừng chỉ còn từng khoảnh (do bị nhiễm chất độc hóa học trong chiến tranh). Theo như già Rơ Mah Klum thì: “Trước kia, mọi chi phí cuộc sống của người dân chỉ ngó vào hạt gạo nên nó chạy mau lắm, nhà nước cứ phải cứu đói dài dài. Kiếm được tiền cũng đã khó, mà tiêu tiền càng khó hơn. Muốn cái gì cũng phải trèo qua gần chục quả đồi. Mùa khô còn dễ dàng chứ nếu mùa mưa thì nhà nào có gì đóng cửa ăn nấy; lũ trẻ thì ngày càng đông nhưng nửa chữ cắn làm đôi cũng không biết. Mà đã đói cái bụng thì cái đầu nó cũng không nghĩ được thứ gì nữa. Nếu có ai ốm thì cứ chăm bẵm xem có con heo to, con gà béo nào không để đập thịt cúng Yàng".
Già Rơ Mah Klum cho biết thêm: "Có ai biết bệnh xá là gì đâu vì nghe nói chỉ có người nào bị chảy máu mới đưa đến bệnh xá mà chữa, còn bị đau trong người là do… Yàng phạt đấy thôi. Từ khi các anh bộ đội về phát động phong trào làm cao su, cà phê, xen canh các cây ngắn ngày (đậu, bắp…) đã dần thu hút chúng tôi vào làm công nhân. Làm công nhân còn có tiền đong gạo, chứ cứ chờ vào bẫy săn thú rừng và dựa vào lúa rẫy thì cái đói cứ luẩn quẩn mãi thôi. Mà khi đã ưng cái bụng rồi thì chỉ còn biết tin chú bộ đội nói gì là làm theo. Bây giờ cái bụng người Jrai đã ăn thề với nhau là chỉ tin và làm theo mấy chú bộ đội là sẽ giàu có”.
Từ sự thay đổi cách sống, xây dựng niềm tin rồi cải thiện dần cách nghĩ, cách làm, cách quản lý… Và cái gốc của vấn đề xuất phát từ kinh tế, làm cho họ hiểu được âm mưu thâm độc của bọn phản động Fulro, tạo tâm lý họ yên tâm sản xuất. Nhờ đó mà bây giờ thu nhập của công nhân người dân tộc thiểu số cao hẳn mấy năm trước. Có những hộ người dân tộc thiểu số nhận khoán có mức thu nhập 11,5 triệu đồng/hộ/tháng. Trung bình đạt 6-7 triệu đồng/hộ/tháng. Rồi như Rơ Lan Ach đạt 46,4 triệu đồng/năm, Ka Puih Phí 52,96 triệu đồng/năm, Rơ Châm Uch 47,98 triệu đồng/năm… Tất cả nguồn thu nói trên chưa kèm theo tiền thưởng hàng tháng, quý, năm...
Hoặc có những điển hình như Rơ Mah Byên, công nhân đội 7A (làng Sung Tung, xã Ia Kla) được nhiều người trong công ty gắn cho biệt danh “cao thủ” vì năm 2009 đã thực hiện vượt 150% kế hoạch (năng suất vượt xa so với người Kinh), với mức lương bình quân đạt 5,4 triệu đồng/tháng (chưa kể tiền thưởng). Đội 7A có 252 công nhân (100% là người dân tộc thiểu số Jrai), người thấp nhất cũng đạt 3 triệu đồng/người/tháng. Hay như Rơ Mah Tuyn ngoài lương công nhân, hàng năm gia đình còn có nguồn thu từ 250 trụ hồ tiêu, 2ha cao su…; Rcom Ngak cũng làm công nhân, ngoài ra còn trồng được 1,5ha cao su tiểu điền, 2ha điều đang cho thu hoạch… thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm…
VŨ NĂM