Nói tới Chiến thắng 30-4-1975 mà chỉ nói về 5 cánh quân 5 hướng tiến công, tức là chỉ nói về các “quả đấm chủ lực” thì không đầy đủ. Phải thấy rõ đây thật sự là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, trong đó “quả đấm chủ lực” với những binh đoàn cơ động là lực lượng nòng cốt của đấu tranh quân sự, với những đòn điểm huyệt đã đánh trúng, đánh hay, đánh hiểm ở những trận then chốt và then chốt quyết định, chọc thủng và làm vỡ tuyến phòng thủ chiến lược của địch, khiến quân địch nhanh chóng lâm vào thế bị động, lúng túng rồi vỡ trận về quân sự, hoảng loạn về tinh thần.
Người dân thành phố Sài Gòn mừng chiến thắng cùng các anh bộ đội giải phóng, ngày 30-4-1975.
Nhưng để giải quyết đồng loạt, rộng khắp, kịp thời và thật sự làm cho cả bộ máy ngụy quyền và đội ngũ ngụy quân 1,1 triệu tên với trang bị hiện đại, được viện trợ mạnh của đế quốc Mỹ tan rã thì phải thấy rõ vai trò tiến công và nổi dậy của lực lượng tại chỗ, của lực lượng chính trị quần chúng, trong đó có cả lực lượng của những người bị bắt buộc đứng trong hàng ngũ của địch và cơ sở cách mạng trong hàng ngũ địch, có cả yếu tố binh biến mà từ trước tới nay ta chưa nói rõ. “Quả đấm chủ lực” tạo điều kiện cho lực lượng quân sự bên trong, và ngược lại, lực lượng bên trong đã tạo điều kiện cho các mũi tiến công của chủ lực cơ động.
Một người phụ nữ sống trong lòng địch mà hoạt động tốt thì ở những thời điểm quyết định, sẽ có sức mạnh và hiệu quả hơn một tiểu đoàn.
Khẳng định vai trò của lực lượng chủ lực là đúng; nhất định phải có, không có không được. Nhưng lực lượng tại chỗ cũng rất quan trọng, không có thì lực lượng cơ động không thể làm được, mà có làm được thì thương vong cũng lớn lắm.
Là người lãnh đạo cách mạng, bằng tư duy vừa thực tế vừa khoa học, nhạy bén, sắc sảo, Đảng ta đã nhận rõ vấn đề này và đã chuẩn bị từ lâu; đến thời điểm 1975, nó thật sự đã tích tụ, chín muồi, phát huy tác dụng cao độ tới mức thăng hoa!
Nói rõ thêm về điểm này, tôi được biết, trong thiên hồi ức của mình, anh Phan Hàm, nguyên Phó cục trưởng Cục Tác chiến đã ghi lại những ý kiến của đồng chí Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn ngày 21 và 22-7-1974 tại Đồ Sơn, khi anh Phan Hàm và anh Võ Quang Hồ, hai Phó cục trưởng Cục Tác chiến được cùng với các anh Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn là hai Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội lên báo cáo tình hình với đồng chí Lê Duẩn và nhận chỉ thị chuẩn bị kế hoạch quân sự cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam. Những lời đồng chí Lê Duẩn nói ngoài văn bản đã được anh Phan Hàm ghi lại một cách trung thực vì anh cho rằng “Nó có sức nặng hơn cả mấy binh đoàn” vì đó là tư duy sáng giá của một bộ óc lỗi lạc tại thời điểm quyết định của cách mạng. Sau khi phân tích tình hình mọi mặt: Mỹ, các nước lớn, tình hình ta, chiến trường..., đồng chí Lê Duẩn nói: “Hiện nay các nước muốn làm chủ Đông Nam Á chưa ai sẵn sàng cả. Mỹ thì đang rút ra, chưa phải là lúc vào lại. Cho nên, mặc dù bọn Mỹ ở bên này có kêu gào đến mấy chăng nữa thì viện trợ chỉ có chiều hướng giảm, không tăng; ngụy thì đang xuống dốc; còn ta thì đang ở thế thắng và đang tiến lên nhanh. Vì vậy, tôi nghĩ rằng, nay thời cơ thuận lợi nhất để kết thúc cuộc chiến tranh, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Nếu để chậm năm, bảy năm nữa, họ mạnh lên thì sẽ phức tạp vô cùng cho ta. Từ tình hình trong nước và tình hình thế giới mà rút ra kết luận đó. Nhưng còn một vấn đề nữa là thắng như thế nào cho tốt? Để chậm thì không tốt đã đành; còn làm mà làm không tốt, trầy trật, cũng sẽ thêm phức tạp. Làm tốt là làm nhẹ nhàng, làm nhanh, làm gọn, làm triệt để, làm trong một vài tháng thì có lợi hơn làm dây dưa, kéo dài ngày. Có như thế mới đạt được bất ngờ để không ai kịp trở tay; chứ nếu kéo dài ra thì các nước lớn sẽ tìm cách này, cách nọ để tăng thêm lực lượng, tiền của, để họ đối phó được với ta. Có làm được như thế không? Tôi nghĩ rằng cần thiết và nhất định sẽ làm được...”.
Khi làm kế hoạch quân sự, Cục Tác chiến và Bộ Tổng Tham mưu dự kiến kế hoạch tiến công giải phóng trong 4 năm, đồng chí Lê Duẩn đã nói: “Ta quyết tâm trong hai năm 1975 - 1976, động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền Nam - Bắc, đưa cuộc cách mạng của ta lên bước phát triển mới, cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân...”. Thế rồi, đồng chí Bí thư Thứ nhất đã chỉ rõ: “Do tính chất của cuộc chiến tranh, đô thị sẽ là nơi quyết định. Nó thua ở đâu, chứ nếu ta không dứt điểm được Sài Gòn thì chiến tranh sẽ còn tiếp tục. Cho nên nhất định Sài Gòn phải chuyển mạnh, nếu không thì mất thời cơ. Phải chủ động gây phong trào, chứ không phải ngồi chờ phong trào nổi lên. Khi ta đánh mạnh thì phong trào đô thị sẽ khác ngay. Phải có người dám làm, vào hẳn trong thành phố. Không xông vào thì xa rời quần chúng, xa phong trào. Phải xông vào mà nắm lấy chỗ yếu nhất của địch, để kịp thời và có biện pháp cụ thể, lợi dụng, khoét sâu thêm... Đánh vào Sài Gòn như thế nào? Tất nhiên là phải chuẩn bị cho kỹ về quân sự. Các anh phải làm cho thật tốt. Tôi chỉ nói đến một khía cạnh thôi. Đây là một thành phố có gần 4 triệu dân, có 10 vạn cảnh sát, ghê gớm lắm. Nhưng không phải chỉ đem lực lượng quân sự giữa hai bên ra mà so sánh, mà phải thấy lực lượng của quần chúng. Lực lượng này thì tiềm tàng, bây giờ ta phải ra sức phát triển, nhưng sức mạnh của nó thì không ai có thể lường hết được. Nó còn mạnh gấp năm, gấp mười lần sức mạnh quân sự. Đến một lúc nào đó, tình thế xoay chuyển, thì chỉ trong một thời gian ngắn, lực lượng này có thể làm tê liệt tất cả: Nhà máy sẽ không còn là pháo đài hay lô cốt của quân địch, mà sẽ trở thành những ổ đề kháng, nơi tập trung lực lượng của giai cấp công nhân; đường phố sẽ không còn là phòng tuyến của địch, mà trở thành những chiến lũy gang thép, thiên la địa võng của ta để bao vây quân địch, tiêu diệt quân thù. Mà chẳng phải chỉ có Sài Gòn mới làm được như thế đâu. Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ... nơi nào cũng làm được như thế cả…”.
Tôi được biết, người được Bộ Chính trị giao trọng trách lo việc xây dựng và tổ chức lực lượng quần chúng ở địa bàn Sài Gòn - Gia Định là hai anh Võ Văn Kiệt và Trần Hải Phụng.
Thế rồi sự thật lịch sử cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, Đại thắng mùa Xuân 1975 đã diễn ra đúng như những ý kiến tiên liệu của đồng chí Lê Duẩn.
Quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả nội dung chỉ đạo của Bộ Chính trị, phải thấy rõ vai trò lãnh đạo nhạy bén, kịp thời, thống nhất của các Khu ủy, Tỉnh ủy và Đảng ủy các cấp cơ sở trong những ngày Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975. Nếu không nói rõ điều này thì các thế hệ hôm nay và mai sau chỉ thấy vai trò của bộ đội chủ lực. Quân và dân tất cả các quân khu đã ở tư thế sẵn sàng, chuẩn bị đầy đủ nên đã chủ động tiến công và nổi dậy, thực hiện giải phóng hoàn toàn địa bàn của Quân khu cùng thời điểm với giải phóng Sài Gòn, trong đó cần ghi nhận hai người giữ trọng trách hàng đầu là Bí thư Khu ủy và Tư lệnh Quân khu: Khu 5 - Bí thư là Võ Chí Công (Năm Công), Tư lệnh là Chu Huy Mân (Hai Mạnh); Khu 6 - Bí thư là Năm Hòa (Trần Lê), Tư lệnh là Nguyễn Trọng Xuyên; Khu 7 - Bí thư là Năm Chữ (Lê Quang Chữ), Tư lệnh là Lê Văn Ngọc; Khu 8 - Bí thư là Năm Bê (Huỳnh Châu Sổ), Tư lệnh là Lê Quốc Sản; Khu 9 - Bí thư là Vũ Đình Liệu, Tư lệnh là Lê Ngọc Hưng. Trong đây có một ví dụ vừa sinh động vừa rất điển hình, đó là sự kiện giải phóng Đà Nẵng. Theo kế hoạch ban đầu thì sau khi đánh Buôn Mê Thuột và giải quyết khu vực Tây Nguyên, ta sẽ tập trung lực lượng giải phóng Sài Gòn - Gia Định, sau đó mới quay ra giải phóng Đà Nẵng. Nhưng ngay khi ta “ra đòn phủ đầu” Buôn Mê Thuột, quân địch lập tức lâm vào hoảng loạn và vỡ trận, thì thời cơ lớn của cuộc cách mạng đã thật sự mở ra. Bộ Chỉ huy nhanh chóng điều chỉnh kế hoạch tiến công: Ra quyết định giải phóng Huế và Đà Nẵng. Thực tế là, mặc dù đã có “Quyết định thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch Huế - Đà Nẵng” và “Kế hoạch - Quyết tâm chiến đấu” đã được phê duyệt, các lực lượng tiến công cũng nhanh chóng được triển khai; nhưng, lại có một thực tế nữa đã thật sự diễn ra: Đó là, do quán triệt và tổ chức xây dựng lực lượng tại chỗ tốt (cả lực lượng chủ lực cơ động của Quân khu, cả lực lượng quân sự và chính trị của quần chúng) nên khi thấy thời cơ tới, Ban lãnh đạo và Chỉ huy Quân khu 5, đứng đầu là hai anh Võ Chí Công và Chu Huy Mân đã chớp thời cơ, tổ chức lực lượng, nhanh chóng tiến công, giải phóng mau lẹ thành phố Đà Nẵng, mà không phải chờ đợi “chủ lực cơ động của Bộ” tới.
Toàn bộ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã toát lên một điều là Đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh đã thấm sâu vào quần chúng, kể cả quần chúng bị bắt buộc vào trong hàng ngũ địch, đây là thời cơ nó bộc lộ ra, vô cùng sinh động, mạnh mẽ và hiệu quả hơn bao giờ hết.
Trong suốt hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì phong trào đấu tranh của quần chúng đã phát triển thành ba lực lượng: Lực lượng vũ trang cách mạng, lực lượng chính trị quần chúng, lực lượng quần chúng bị bắt buộc.
Tôi thấy ở miền Nam, làng quê khu phố nào, dòng họ gia đình nào cũng có ba lực lượng đó cả. Có thể nói cả ba lực lượng này nó thuần hóa với nhau, nó chuyển hóa vào từng con người một. Nhưng, chỉ có sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt và đầy tính nhân văn của Đảng ta, khi thời cơ cách mạng hiện ra thì cả ba lực lượng này mới bộc lộ ra, phát huy sức mạnh, cộng hưởng, tạo nên cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đúng cả nghĩa đen và nghĩa bóng của từ này, và sức mạnh đó đã thật sự làm được, làm đúng, làm có hiệu quả tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị và Trung ương Cục là “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã...”. Các lực lượng của cách mạng và của quần chúng đã hiệp đồng chặt chẽ, kết hợp nhuần nhuyễn tạo thành một sức mạnh vô cùng to lớn, mà chính sức mạnh này đã làm cho bộ máy ngụy quyền Sài Gòn đồ sộ, với 1,1 triệu quân ngụy được trang bị hiện đại, được viện trợ tối đa đã tan rã, sụp đổ nhanh chóng (trong quân đội và cảnh sát của Việt Nam Cộng hòa lại có ba bộ phận: Phần đông là số bị bắt buộc thì đã đào ngũ một hoặc nhiều lần, số này khi có thời cơ thì liền bỏ ngũ trở về với gia đình, quê hương. Số lừng chừng, khi quân ta tiến công mãnh liệt thì chúng hoảng loạn, rã ngũ tại chỗ. Số ít thuộc loại ác ôn ngoan cố thì dao động bỏ chạy, đầu hàng, thậm chí có tên tự sát). Tinh thần “Thần tốc, táo bạo” không những chỉ đối với các binh đoàn chủ lực từ xa đến, mà còn đối với cả các lực lượng tại chỗ - lực lượng chính trị, lực lượng binh vận, kể cả lực lượng nằm trong hàng ngũ của địch cũng đã nhanh nhất, táo bạo nhất, phối hợp với lực lượng chủ lực cơ động từ xa tới. Giờ chúng ta phải hiểu chữ “Thần tốc” mà Bộ Chính trị chỉ đạo như thế mới đầy đủ.
Nhưng cũng cần phải nói cho rõ là: Chúng ta, với sức mạnh như thế nhưng cũng chỉ đề ra mục tiêu là “đánh cho Mỹ cút, Mỹ rút” thôi; còn cứ nói “đánh tiêu diệt” là không đúng, không đúng ý của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng, và cũng không thể thực hiện được. Còn “ngụy nhào” là sự kết hợp giữa tác động từ bên trong với bên ngoài đánh vào, đánh trúng huyệt hiểm, cộng với quần chúng (kể cả quần chúng bị bắt buộc đứng trong hàng ngũ địch) nổi dậy như thác vỡ bờ nên ngụy sụp đổ
(Còn tiếp)
Đại tướng LÊ ĐỨC ANH
Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam;
nguyên Phó Tư lệnh Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh, kiêm Tư lệnh Đoàn 232 -
Cánh quân hướng Tây - Tây Nam đánh vào nội đô Sài Gòn - Gia Định tháng 4-1975.