Đâu là sự thật lịch sử?

Tự do báo chí ở Việt Nam

Thời gian gần đây, các thế lực thù địch lại tung ra những quan điểm sai trái, bịa đặt, vu cáo nhằm phủ nhận, xuyên tạc những thành tựu của công cuộc đổi mới và con đương đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Các nhà khoa học đã viết bài phê phán những quan điểm sai trái trên. Hội đồng Lý luận TƯ đã tập hợp những bài viết đó và phối hợp với Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách “Lẽ phải của chúng ta”. Báo SGGP xin trích đăng bài của Tiến sĩ Hồng Vinh.
Tự do báo chí ở Việt Nam

Thời gian gần đây, các thế lực thù địch lại tung ra những quan điểm sai trái, bịa đặt, vu cáo nhằm phủ nhận, xuyên tạc những thành tựu của công cuộc đổi mới và con đương đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Các nhà khoa học đã viết bài phê phán những quan điểm sai trái trên. Hội đồng Lý luận TƯ đã tập hợp những bài viết đó và phối hợp với Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách “Lẽ phải của chúng ta”. Báo SGGP xin trích đăng bài của Tiến sĩ Hồng Vinh.

Tự do báo chí ở Việt Nam ảnh 1

Phóng viên trong và ngoài nước phỏng vấn các tướng lĩnh Việt Nam nhân dịp 30 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đặc biệt từ khi nước ta tiến hành sự nghiệp đổi mới, báo chí Việt Nam đã có bước phát triển nhanh chóng về số lượng và chất lượng. Hiện nay, nước ta đã có tất cả các loại hình báo chí (báo viết, báo nói, báo hình, báo điện tử). Cả nước hiện có hơn 550 cơ quan báo chí, với 713 ấn phẩm báo chí, bình quân 7,5 bản báo đầu người/năm.

Đài Tiếng nói Việt Nam đã có 6 hệ chương trình, 452 chương trình, thời lượng phát sóng 172 giờ trong ngày. Sóng phát thanh không chỉ đã phủ trong toàn quốc, mà còn tỏa khắp năm châu, đáp ứng nhu cầu tinh thần của hàng triệu đồng bào sống ở nước ngoài và bầu bạn thế giới. Cùng với 11 trạm phát sóng và phát qua vệ tinh của Đài Tiếng nói Việt Nam, còn có 64 đài tỉnh, thành phố, 606 đài phát thanh truyền hình cấp huyện, trong đó có 288 đài phát sóng FM.

Đài Truyền hình Việt Nam có 5 kênh, phủ sóng đến 85% hộ gia đình Việt Nam, có 4 đài khu vực và 61 đài phát thanh, truyền hình tỉnh và thành phố. Trong những năm gần đây, đài đã có chương trình VTV4 phủ sóng đến nhiều vùng trên thế giới, được cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và bầu bạn năm châu đón nhận và hoan nghênh.

Mặc dù mới được phát triển trong mấy năm gần đây, báo điện tử đã có bước phát triển nhanh chóng với tốc độ tăng 32,5%/năm. Hiện nay ở nước ta đã có hơn 70 tờ báo điện tử và hàng ngàn trang thông tin điện tử; 6 nhà cung cấp dịch vụ và kết nối Internet; 20 nhà cung cấp dịch vụ Internet và hơn 50 nhà cung cấp thông tin và báo điện tử trên Internet…

Báo chí nước ta đã là món ăn tinh thần không thể thiếu được của các tầng lớp nhân dân; thực sự đến với nhiều đối tượng trở thành người bạn thân thiết hằng ngày của họ. Đó là vì báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị, tổ chức xã hội, nghề nghiệp, tiếng nói của nhân dân,…; đồng thời là bầu bạn tin cậy của các tầng lớp nhân dân, đã và đang đáp ứng quyền được cung cấp thông tin của đông đảo cán bộ, nhân dân.

Báo chí Việt Nam có quyền đề cập tất cả các vấn đề mà pháp luật không cấm. Pháp luật chỉ cấm báo chí tuyên truyền kích động bạo lực, kích dục, tuyên truyền cho chiến tranh, gây chia rẽ đoàn kết dân tộc. Đây là điều cần thiết với tất cả các nước tiến bộ trên thế giới, mong muốn xây dựng một xã hội hòa bình, ổn định, vì hạnh phúc của nhân dân.

Báo chí Việt Nam đã tích cực tham gia đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, quan liêu, phát hiện những việc làm trái với pháp luật, đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Báo chí tham gia xây dựng đời sống mới, đấu tranh với những hủ tục, những tệ nạn xã hội. Báo chí ngày càng tham gia rộng rãi vào việc xây dựng Đảng, chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII, Đảng ta đã coi báo chí là công cụ giám sát các hoạt động của tổ chức Đảng và cơ quan nhà nước, phát hiện và phê phán cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất, có biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, quan liêu,…

Có thể đi đến kết luận là, báo chí và hoạt động báo chí ở Việt Nam, ngay từ khi mới ra đời, đã hoạt động vì mục tiêu độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Đó chính là nội dung cốt lõi của tự do báo chí ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Luật Báo chí Việt Nam khẳng định báo chí không chỉ là cơ quan của Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị và tổ chức xã hội, nghề nghiệp,... mà còn là diễn đàn tin cậy của người dân. Nhân dân có quyền bày tỏ ý kiến của mình qua các phương tiện báo chí. Hàng triệu bài, tin gửi cho các báo về nhiều chủ đề liên quan đến các mặt thiết thực của đời sống nhân dân; thông qua chuyên mục “Ý kiến bạn đọc”, nhiều ý kiến rất phong phú của các tầng lớp nhân dân được phản ánh trên nhiều tờ báo, là sự thể hiện sinh động quyền tự do ngôn luận của mỗi người dân.

Luật Báo chí của Việt Nam ghi rõ hai điều rất quan trọng:

Điều 4: Quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Công dân có quyền:

1- Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới;

2- Tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin;

3- Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới;

4- Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;

5- Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên của các tổ chức đó.

Điều 5: Trách nhiệm của báo chí đối với quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân.

Cơ quan báo chí có trách nhiệm:

l) Đăng, phát sóng tác phẩm, ý kiến của công dân; trong trường hợp không đăng, phát sóng phải trả lời và nói rõ lý do;

2) Trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có chức vụ trả lời bằng thư hoặc trên báo chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến.

Như vậy, dù với động cơ nào, người ta không thể bưng tai, nhắm mắt phủ nhận pháp luật Việt Nam về tự do hoạt động báo chí; phủ nhận tính dân chủ, văn minh của báo chí Việt Nam trong thời đại ngày nay.

Thực tế quản lý hoạt động báo chí bằng pháp luật ở Việt Nam đã thể hiện tự do báo chí của Việt Nam. Trong một xã hội dân chủ, tự do của người này không thể làm mất tự do của người khác. Những hành động liên kết với nhau để vụ lợi, trái với quy ước đạo đức nghề nghiệp báo chí, đều bị xử lý, dù người đó đang giữ trọng trách cao trong cơ quan của Đảng, Nhà nước. Những tờ báo hoạt động xâm hại tôn chỉ, mục đích, gây tác động xấu đối với xã hội đều bị xử phạt theo các quy định của pháp luật.

Để nâng cao chất lượng hoạt động báo chí của các nhà báo, Nhà nước Việt Nam đã lập ra các trường đại học báo chí, đào tạo nhà báo với trình độ đại học và cao học. Hàng năm có hàng trăm nhà báo ra trường, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, có năng lực và ý thức trách nhiệm xã hội. Các trường đào tạo nhà báo ở Việt Nam đã có sự hợp tác, liên kết với các trường đại học báo chí của Pháp và một số nước phương Tây để bồi dưỡng, trao đổi kinh nghiệm làm báo. Việt Nam đã cử hàng trăm nhà báo đi bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí tại các trường đại học ở Mỹ, Pháp, Đức, Thụy Điển, Nga,... Báo chí Việt Nam không đóng cửa, biệt lập với thế giới, mà luôn luôn mở rộng quan hệ với các đồng nghiệp ở nhiều nước.

Để bảo vệ quyền lợi của các nhà báo, giúp nhau bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí, Việt Nam đã có Hội Nhà báo toàn quốc và các hội địa phương, thu hút hơn 12.000 nhà báo là hội viên. Hội Nhà báo Việt Nam là thành viên của Hội Nhà báo quốc tế (OIJ) và Liên đoàn Báo chí ASEAN (CAJ) trong nhiều năm qua, tham gia tích cực và đóng góp xứng đáng vào sự phát triển của báo chí khu vực và thế giới, vì mục tiêu hòa bình, ổn định, tiến bộ và thịnh vượng.

Vậy là, sự quản lý báo chí bằng pháp luật ở Việt Nam không phải là sự cản trở quyền tự do báo chí của người dân cũng như những hoạt động báo chí của các nhà báo. Việt Nam đã mở cửa trong hoạt động báo chí với bên ngoài để góp phần nâng cao trình độ báo chí của mình, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa, hội nhập, giao lưu kinh tế, văn hóa với bầu bạn bốn phương.

Có ý kiến cho rằng, có báo tư nhân mới là biểu hiện cụ thể của tự do báo chí. Phải khẳng định rằng không có báo chí tư nhân thì không thể quy chụp là không có “tự do báo chí”. Những người làm báo Việt Nam đã và đang phấn đấu vì sự nghiệp độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc của nhân dân. Những tờ báo hiện nay của các cơ quan Đảng, nhà nước, đoàn thể chính trị, xã hội, tổ chức nghề nghiệp đã phản ánh đầy đủ những ý kiến, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân. Vì vậy, vấn đề ra báo tư nhân hiện nay là không cần thiết.

Những kiến nghị của họ đã được công luận phản ánh đầy đủ và được Đảng, Nhà nước tiếp thu, trả lời qua báo, đài. Đó là sự thể hiện quyền được thông tin cũng như quyền ngôn luận của nhân dân. Mặt khác, thực tiễn việc ra đời báo tư nhân ở nhiều nước gây nhiễu thông tin, thậm chí làm vô hiệu hóa sự lãnh đạo của chính quyền, dẫn đến sự rối loạn chính trị-xã hội ở nhiều nước vốn quảng cáo rầm rộ cho cái gọi là “tự do báo chí” đã là bài học thấm thía cho nhân dân ta. Có lẽ nào, chúng ta lại trượt theo vết xe đổ ấy?

Sở dĩ có đòi hỏi vô lý trên, có nguyên nhân từ nhận thức mơ hồ về quyền tự do báo chí và nhiệm vụ của báo chí Việt Nam. Do hiểu phiến diện hoặc cố tình hiểu sai về tự do báo chí, họ đã ra công cổ súy, đấu tranh đòi “tự do báo chí” theo kiểu phương Tây, coi đó là biểu hiện của “tinh thần dân chủ”, tự phong cho mình là “người hăng hái đấu tranh cho dân chủ”. Song, họ không hiểu rằng dân chủ là một thể chế, trong đó quyền tự do báo chí của người này không được làm tổn hại đến quyền tự do của người khác, đến lợi ích của toàn dân tộc. Sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu có sự góp phần của những tờ báo theo khuynh hướng “tự do báo chí” kiểu phương Tây đó.

Mặt khác, trong một số ít người, tư tưởng nêu trên xuất phát từ những toan tính liên quan đến lợi ích, quyền lực, động cơ cá nhân; từ sự bất mãn của họ với Đảng và Nhà nước. Họ luôn luôn đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích của đất nước; chính vì thế, họ có những ý kiến lạc lõng, cực đoan, phản lại quyền lợi của dân tộc.

Trong số những người cơ hội chính trị, có người đã thực sự đối lập với lợi ích Tổ quốc, liên kết những phần tử bất mãn ở bên trong cùng với thế lực xấu ở bên ngoài để dùng báo chí chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Họ quay lưng lại với quá khứ vẻ vang, hào hùng của toàn dân tộc, trong đó có sự đóng góp nào đó của gia đình và bản thân họ.

Những bài báo, những hồi ký của họ đầy rẫy sự xuyên tạc, vu cáo hèn hạ, bêu riếu những người dân nước Việt đang ngày đêm cần cù lao động sáng tạo, chắt chiu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tất cả vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Thật trớ trêu khi họ cho rằng, nếu chúng ta không có tự do báo chí như họ mong muốn, thì “đất nước này vẫn không thể cất đầu lên được”, vẫn “sống trong vòng lạc hậu tối tăm” (!). Những người nuôi dã tâm xấu xa đó không có quyền nói đến “tự do báo chí”, theo nghĩa chân chính nhất của từ này.

Tự do báo chí cho ai, vì ai? Câu hỏi lớn đó đã được thực tiễn đổi mới đất nước nói chung và thực tiễn đổi mới báo chí nói riêng trong gần 20 năm qua cùng thực tiễn trên thế giới ngày nay cho ta câu trả lời rành rọt. Thực tiễn luôn luôn là tiêu chuẩn của chân lý. Nhận thức đúng xu thế tiến lên của dân tộc, trong đó có hoạt động rất sôi động và hiệu quả của báo chí cách mạng Việt Nam, chúng ta sẽ có cái nhìn đúng đắn về Việt Nam trong tiến trình đổi mới.

TS HỒNG VINH
 

Tin cùng chuyên mục