Hỏi: Trong tác phẩm Nhị thập tứ hiếu của Lý Văn Phức, ở bài “Mẫn Tử Khiên nhà Chu” có đoạn:
Thầy Mẫn Tử rất đường hiếu nghĩa
Xót nhà huyên quạnh quẽ đã lâu
Thờ cha sớm viếng khuya hầu
Chẳng may gặp phải mẹ sau nồng nàn.
Theo nội dung bài này, bà mẹ ghẻ đối xử với Mẫn Tử Khiên rất tệ nhưng tác giả lại viết nồng nàn. Phải chăng từ nồng nàn này khác nghĩa với từ nồng nàn ngày nay?
Phạm Văn Ngôn (Phan Thiết)
Trong Từ điển An Nam – Lusitan – La tinh (1651), A. de Rhodes có giải nghĩa từ nồng nàn như sau “không có sự tôn kính, bất nhã, xấc xược. Đồng nghĩa với dể ngươi”.
Trong Từ vị An Nam – Latinh (1772-1773), P. de Béhaine giải thích từ nồng nàn là: “mùi chua xót của cơ cực, khổ cực…” .
Huỳnh Tịnh Của, trong Đại Nam quốc âm tự vị (1895-1896), giảng nghĩa: “Nồng: mùi cay nóng, hăng gắt”. “Nồng nàn: nồng quá”.
Trong Truyện Kiều, câu: “Gạn gùng đến mực nồng nàn mới tha” (câu 1154) nói lên hành động độc ác của Tú Bà đối với Kiều.
Qua cách hiểu của các tác giả sống trong ba thế kỷ 17,18,19, ta có thể khái quát hai nghĩa (bóng) của từ nồng nàn là “ngang ngược” và “cay nghiệt”. Nghĩa thứ hai ứng vào câu thơ của Lý Văn Phức.
Còn ngày nay, nồng nàn không còn nghĩa “tiêu cực” trên mà chuyển sang “tích cực”: “1. Đậm mùi một cách dễ chịu: Hương bưởi thơm nồng nàn. Mùi rượu nếp bốc lên nồng nàn; 2. (ít dùng) (ngủ) say và sâu: giấc ngủ nồng nàn; 3. Tha thiết và sâu đậm: tình yêu nồng nàn” (Hoàng Phê chủ biên, Từ điển tiếng Việt, 2000).
PGS.TS Lê Trung Hoa