Tục táng ở Tây Nguyên - Chuyện kể ở làng Vai Trang

Làng Vai Trang (tỉnh Kon Tum) của người Giẻ (một nhánh của người Giẻ Triêng) là làng duy nhất của xã Đăk Long còn dấu tích rừng ma. Đó là nơi còn lại những dấu tích cuối cùng về tục táng treo của đồng bào Giẻ Triêng ở Kon Tum.
Tục táng ở Tây Nguyên - Chuyện kể ở làng Vai Trang

Làng Vai Trang (tỉnh Kon Tum) của người Giẻ (một nhánh của người Giẻ Triêng) là làng duy nhất của xã Đăk Long còn dấu tích rừng ma. Đó là nơi còn lại những dấu tích cuối cùng về tục táng treo của đồng bào Giẻ Triêng ở Kon Tum.

Được hai chiến sĩ Đồn biên phòng 673 xã Đăk Long dẫn đường, chúng tôi đã gặp được già A B’Lá. Khi hỏi về tục táng treo già làng cho biết: “Hơn 10 năm rồi, làng mình không ai táng treo nữa. Bộ đội biên phòng bảo táng treo gây ô nhiễm môi trường nên dân làng mình bỏ rồi”.

Năm 2000, ông A Nan bố vợ già làng A B’Lá mất nhưng ông dặn con cháu không được táng treo nữa mà phải làm gương cho dân làng chôn ông A Nan xuống đất để không ảnh hưởng môi trường nữa. Kể từ đó, làng Vai Trang không còn ai táng treo nữa.

Già làng A B’Lá cho biết, ngày trước, táng treo chỉ dành cho những người giàu, những già làng, thủ lĩnh… mà thôi, chứ không phải ai trong làng cũng được táng treo vì nó tốn kém lắm. Khi nhà giàu có người chết, họ thuê mấy chục người đàn ông lên rừng hạ cây, đẽo quan tài bằng cả thân cây mang về. Rồi mổ trâu thết đãi cả làng hai ba ngày. Đưa người chết đến rừng ma, bỏ người chết vào quan tài được kê trên 2 trụ gỗ cao.

“Rừng ma” nằm cách con đường nhựa dẫn vào Đồn biên phòng 673 dưới tán rừng le không một chút ánh sáng mặt trời, những cặp quan tài treo song song đang dần bị mục rữa. Nhiều quan tài gỗ tròn đã mục nát, rơi xuống khuất trong lau lách và dây leo rừng. Cặp quan tài của vợ chồng cụ A Ỏn, Y Xơu là được làm bằng những thân gỗ tròn, có lẽ nặng tới cả tấn cũng đã bắt đầu có dấu hiệu mục nát. Phía dưới quan tài của cụ ông A Ỏn được kê cao khoảng 90cm bằng hai trụ gỗ, có một quan tài nhỏ. Già A B’Lá giải thích: “Đó là cháu nội “nó” chết khi 2 tuổi. Người Giẻ Triêng thường treo cháu trai chết dưới quan tài ông như vậy, còn cháu gái chết thì được treo dưới quan tài của bà”.

Cách không xa nơi yên nghỉ của vợ chồng A Ỏn, là cặp quan tài bằng nhôm của vợ chồng ông A B’rót và Y Bay. Theo già A B’Lá, con cháu của A B’rót và Y Bay là những người giàu có và đã đặt làm cặp áo quan này cho bố mẹ tới hàng chục triệu đồng. Người chết được “treo” trong quan tài bằng nhôm cũng là điều chưa từng xảy ra trong tục lệ từ xa xưa của người Giẻ Triêng.

Thiếu tá Lê Văn Hội cho biết, ngoài già làng A B’Lá, chưa một người nào ở làng Vai Trang dám bước vào khu rừng này. Kể cả khi trâu, bò đi lạc vào rừng thì họ cũng chỉ đứng ngoài chờ.

Bởi thế khi chúng tôi đưa A B’Lá về đến nhà, có nhiều người dân làng Vai Trang đến hỏi chuyện rừng ma bây giờ thế nào và trong mắt họ lộ vẻ ngạc nhiên, lo lắng…

Làng nhà mồ B’Yang

Nhà mồ và tượng nhà mồ là nét văn hóa đặc sắc trong tục táng của đồng bào Tây Nguyên trong thời gian gần đây, tục lệ dựng nhà mồ, tượng nhà mồ chỉ còn thấy ở các dân tộc Ba Na, Ê Đê, Gia Rai, Mnông, Xơ Đăng. Khác với rừng ma của người Giẻ Triêng, nhà mồ và tượng nhà mồ của người Ba Na lại rất gần gũi với người sống trong buôn làng vì họ tin rằng có một thế giới người chết tồn tại song hành với cuộc sống dương gian.

Làng B’Yang chỉ nằm cách thị trấn Kông Chro 4km (tỉnh Gia Lai), ở đây còn lưu giữ những đặc trưng văn hóa của dân tộc Ba Na, đặc biệt là tục táng nhà mồ.

Ở làng nhà mồ B’ Yang (ảnh), những pho tượng được người làng dựng quay mặt ra ngoài, có cả tượng khỉ bồng con, bà già ôm mặt rầu rĩ, chim công, chim cú và cả tượng chó, mèo… Không kể giàu, nghèo, theo phong tục Ba Na, đẽo tượng “đi theo” người chết là thể hiện lòng hiếu thảo, tình cảm tiếc thương của người sống đối với người đã khuất. Tượng đi theo người chết thường được tạc đẽo theo ý thích, nghề nghiệp của người đó khi còn sống và nhất định là phải theo cặp âm - dương, con vật cũng phải có cuộc sống lứa đôi.

Vượt qua sông Đăk Kroong tìm đến nghĩa địa của làng B’Yang nhìn từ xa, trông như một ngôi làng thu nhỏ với những nóc nhà mồ có hình mái nhà rông được trang trí bằng những cây k’lao (một dạng cây nêu nhà mồ) sặc sỡ vút lên cao giữa rừng xanh. Người Ba Na quan niệm cột k’lao là đường dẫn linh hồn người chết lên trời, họ còn gọi các vật trang trí bên ngoài là mặt Nar (mặt trời), mặt Khei (mặt trăng). Anh Đinh Êu (cán bộ Phòng Văn hóa Thông tin huyện Kông Chro) cho biết, nhà mồ chỉ được làm sau lễ bỏ mả.

Giữa hàng chục ngôi nhà mồ của nghĩa địa làng B’Yang, nhà mồ của ông Đinh Gliu, nguyên Trưởng ban Văn hóa thị trấn Kông Chro nổi bật lên bởi vẻ đồ sộ, quý tộc của nó. Bốn cột chính căn nhà mồ của Đinh Gliu được trang trí giống như những chiếc ngà voi, hai cây k’lao cao nhất nghĩa địa.  Trong khuôn viên ngôi mộ có cả những cây lúa đã trổ bông, có giá để củi và góc chia của cho người chết.

Anh Đinh Êu kể rằng, riêng phần mái nhà rông và hai cặp tượng nhà mồ của ông Đinh Gliu đã tốn gần chục triệu đồng. Hàng xóm của ông Đinh Gliu là một ngôi mộ có chủ nhân là nữ nhưng cũng hoành tráng không kém, trong một góc của ngôi mộ này còn có dàn khung cửi dệt thổ cẩm dành cho người chết, một đầu trâu được chia trong lễ bỏ mả và cả một giá để hàng trăm thanh củi được xếp ngăn nắp.

Người Ba Na tin rằng, người chết cũng cần có củi lửa để sưởi ấm và trong những thứ vật phẩm cúng cơm hàng ngày. Trên mộ trước lễ bỏ mả nhất thiết phải có củi, lửa và nước. Phía trước những ngôi mộ trong nghĩa địa làng B’Yang luôn có một giếng nước tượng trưng với gáo dừa để bên cạnh. Thế giới người chết của bà con dân tộc Ba Na được công nhận từ ngàn đời tiếp nối nhau như vậy.

CÔNG HOAN

Tin cùng chuyên mục