
Kỳ 1: Say mã đề!
LTS: Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ đã xẻ dọc Trường Sơn chi viện cho chiến trường miền Nam. “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” đã trở thành một trong những biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Để bạn đọc hiểu thêm về cuộc sống những người lính đi B, SGGP 12 Giờ xin giới thiệu những trang viết về con người và những sinh hoạt trên đường Trường Sơn, rút trong cuốn sách 16 nóng lạnh sắp tái bản của nhà văn Trần Văn Tuấn. Ông là một trong số hàng vạn cán bộ, chiến sĩ đã đi B trong thời điểm đó.
Ở trạm 21, nơi giáp với vùng cao nguyên, tôi đã bị gục ngã vì ăn phải quả độc. Do cái đói hành hạ suốt ngày đêm nên bất cứ nghỉ chân giải lao hay đến trạm nào tôi cũng dành thời gian sục sạo các nơi tìm cái để ăn. Trên đường đi, tôi không còn lương khô, đường sữa tiêu chuẩn bồi dưỡng nữa. Cũng chẳng còn cái gì để đổi lấy thực phẩm. Và, tôi cũng không bao giờ để lộ ra cho mọi người biết điều ấy.

Vượt Trường Sơn, có đoạn các chiến sĩ phải lội suối suốt cả buổi. Ảnh: LÂM TẤN TÀI
Ở lúc giải lao buổi chiều trên đường đến Trạm 21 tôi nhét đầy túi cóc, một loại quả giống như quả bàng chín không mùi. Loại quả này rụng đầy gốc cây và hình như loài khỉ cũng đã ăn thứ đó. Tôi thấy trên cao, một con khỉ già gặm gặm mấy cái rồi ném một quả xuống. Tôi nghĩ, khỉ gần giống người, nếu khỉ ăn được thì người cũng ăn được.
Tuy vậy, tôi cũng phải thận trọng xem xét. Cái gì cho vào miệng cũng phải tính đến hậu quả xảy ra. Tôi ăn thử nửa trái, thấy quả này không có mùi vị rõ ràng. Cùi mỏng, xốp, lợt lạt, không có tinh bột như quả cám. Hạt của nó giống như hạt bàng, chắc là có nhân bên trong. Tôi đập hạt, thấy nhân của nó màu nâu nhạt giống như hạt đậu phộng. Ăn thử, thấy bùi và hơi béo hệt như nhân bàng hay đậu phộng. Tôi nhớ ăn đến hạt thứ 19 hay 20 gì gì đó thì ngất xỉu, không biết gì nữa. Ai đó, lôi kéo tôi lết đi trên sườn đồi.
Cũng may, chặng đường đến trạm xá không dài và cũng không chui qua rừng rậm nên cái võng bạt của tôi không bị rách tả tơi. Nó chỉ bị rách hai lỗ do đá ong đâm thủng. Lót áo vô, vẫn còn nằm được. Tiểu đội đưa tôi đến trạm xá của bãi khách. Ở đấy, người ta cằn nhằn: “Có vậy cũng đưa tới trạm. Bị say quả mã đề thôi. Uống ly nước đường là khỏi”.
Họ cho tôi uống ly sữa nóng, vài viên vitamin C. Tôi ngủ li bì suốt đêm và nửa ngày hôm sau mới tỉnh lại.
Ngày hôm sau, tôi đã khỏe lại. Anh y sĩ cười bảo: “Thực ra tai nạn cũng có cái hay. Những người đã ăn hạt mã đề cũng giống như bị ong đốt, sẽ có sức đề kháng rất cao”.
Sáng sớm, tôi nhập vào đội quân thu dung tụt hậu mà dân Trường Sơn thường gọi là lính tụt tạt, nhắm hướng Trạm 22 tiến tới. Đội quân này thường được hình thành từ Trạm 15, sau khi vượt qua Đường 9. Tới Trạm 21, con số chưa nhiều, chừng hơn hai chục người. Hầu hết là lính bị thương tích ở chân, tay do té ngã hoặc bị các loại bệnh thời khí thông thường. Cũng có một hai đứa bé bị sốt rét nhẹ.
Tất cả lính tụt tạt đều thuộc thành phần “cố nông”, không một tấc tài sản tư hữu. Ba lô của mọi người đều xẹp lép, dúm dó và bẩn thỉu. Họ đã ăn hết hoặc cho người khác tất cả thực phẩm bồi dưỡng. Có đứa chẳng còn ba lô nữa, chỉ còn mỗi cái gậy, chiếc lon gô và cái võng bạt quấn quanh cổ. Tôi ngỏ ý nghi ngờ về sức đi của họ. Anh giao liên người Tày quê ở Thái Nguyên cười nói: “Rồi cậu xem, tất cả sẽ đi đến nơi vào đến chốn. Họ là người sống dai nhất đấy”.
Đi trong đội hình tụt tạt này quả là thoải mái. Thằng nào đi cứ đi, thằng nào nghỉ cứ nghỉ. Anh giao liên người Tày đủng đỉnh đi sau và chỉ tỏ ra sốt ruột khi trời đã xế chiều.
Trong những ngày “tụt tạt”, mỗi buổi sáng đối với tôi là một sự kiện quan trọng bực nhứt trong ngày. Đó là lúc phải lo cơm ăn nước uống. Trạm phát cơm nắm ăn trưa cho mỗi người. Những tay phát cơm thường là lười biếng, không chịu cân đong đo đếm cho công bằng. Tình trạng mạnh ai người nấy xúc thường xảy ra. Ai nhanh chân đến trước thì được nhiều, ai chậm lụt phía sau thì ráng chịu phần ít ỏi và cơm cháy còn lại. Chính vì vậy, tôi thường dậy sớm lân la xuống bếp chơi để chờ cơm chín. Nhiều bữa, tôi xuống bếp lúc anh nuôi còn đang nhóm lửa và tôi nhất quyết bám trụ ở đấy ba hoa đủ thứ chuyện nhằm mục đích tranh thủ tình cảm của “thủ trưởng của các thủ trưởng” (chúng tôi thường nịnh các anh nuôi như thế).
Trên đường đi, ngoài việc bám sát đường mòn, lo chuyện ăn uống và cảnh giác bom đạn địch, tôi chẳng chú ý gì đến thời gian. Tôi chỉ mong sao cho sớm đến B2. nghe nói ở đó ăn uống khá lắm. Từ lúc huấn luyện ở Nho Quan, tôi đã nghe các anh đi trước truyền miệng câu thành ngữ “ăn B2, ngủ B3, vào ra B1”.
Kỳ 2: Người bạn đồng hành mới
TRẦN VĂN TUẤN