Thông báo gần đây của Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho biết dù chỉ mới 10 tháng, xuất khẩu gạo của nước ta đã vượt qua Thái Lan, vươn lên vị trí số 1 thế giới. Người nông dân ĐBSCL và hạt gạo Việt lại viết thêm kỳ tích mới.
Trước đó, Tổ chức Cà phê quốc tế cũng xác nhận Việt Nam vượt Brazil, trở thành nước xuất khẩu cà phê số 1 thế giới. Hạt tiêu chiếm vị trí số 1 khi xuất khẩu cao gấp 5 lần Ấn Độ trong năm 2011. Hạt điều cũng đứng đầu thế giới về lượng xuất khẩu, số 2 về chế biến và số 3 về sản lượng. Con cá tra, một sản phẩm “đặc hữu” của ĐBSCL từ nhiều năm qua đã chiếm ngôi đầu bảng thế giới trên cả 3 mặt: sản lượng, giá trị xuất khẩu và thị phần.
Từ vị trí hàng đầu thế giới đó, ngoảnh lại sau hay nhìn về phía trước cũng nhiều nỗi lo. Theo ngôn ngữ thể thao là “phong độ không bằng đẳng cấp”, xét ở góc độ kinh tế, thì “số lượng không bằng chất lượng và giá trị”.
Một tấn gạo, giá xuất khẩu bình quân hiện nay chỉ hơn 445 USD, vị chi 10 tháng làm cật lực, bán gạo cho ngoại quốc, ta thu được 2,877 tỷ USD. Trong khi “một con” iPhone 5 nặng 112 gram, so giá tại Việt Nam khoảng 25 triệu đồng/chiếc, Apple đã đạt doanh số hơn 5 tỷ USD. Tất nhiên, so sánh trên là khập khiễng, nhưng cũng rất đáng được suy ngẫm.
ĐBSCL không chỉ là vựa lúa gạo, trái cây, thủy sản, quyết định kim ngạch xuất khẩu nông sản của cả nước, mà còn là nơi đảm bảo “sức khỏe”cho nền nông nghiệp Việt Nam. Trong khi cả nước luôn “nhập siêu” suốt 27 năm qua (trừ năm 1992 xuất siêu “nhẹ” khoảng 40 triệu USD), ĐBSCL liên tục “xuất siêu” nhờ sự đóng góp từ các mặt hàng nông sản chủ lực.
Có thể nói vùng đất này cho nhiều hơn nhận. Nhưng nghịch lý là tác giả của sự hào phóng đó đang chịu nhiều thiệt thòi. ĐBSCL vẫn là “vùng trũng” về y tế, giáo dục, thấp kém về hạ tầng giao thông. Những sản phẩm chủ lực của vùng vẫn phát triển trong thế “bị đe dọa”: “Hạt gạo cắn chia 8 phần”, “Con cá tra chặt nhiều khúc”, “Cây mía chặt làm nhiều lóng”, “Trái dừa bị bửa ra nhiều miếng”... mà phần thua thiệt thuộc về nông dân.
Ngoảnh lại phía sau hay nhìn về phía trước, trước một thế giới nhiều thay đổi để tự thay đổi mình, mà trước hết là số phận nông dân. Thu nhập của những người làm ra kỳ tích của nền nông nghiệp Việt Nam đang bấp bênh theo giá cả thị trường. Theo kết quả nghiên cứu về “Chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo” của Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL (ĐH Cần Thơ), với bình quân đất sản xuất 0,4ha/hộ, nông dân khó bề làm giàu. “30% lợi nhuận” của nông dân (nếu có) còn thấp hơn mức thu nhập 1 USD/người/ngày!
Những bài học về thương hiệu cà phê, lúa gạo; những điệp khúc “trồng, chặt”, “treo ao”, “mất mùa, trúng giá”... diễn ra thường xuyên chưa được giải quyết căn cơ từ bài toán tổng thể. Yêu cầu nâng cao chất lượng quy hoạch, quản lý quy hoạch, thông tin dự báo thị trường, tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị, tăng cường liên kết để nâng cao thu nhập của người nông dân, gắn kết chặt chẽ các chuỗi nghiên cứu ứng dụng - sản xuất - chế biến và tiêu thụ nông sản để tăng sức cạnh tranh trên thương trường… đang đặt ra nhiều thách thức hơn là chiếm trị trí số 1, số 2.
Đạt được vị trí “đứng đầu thế giới” về xuất khẩu các mặt hàng nông sản là kỳ tích. Nhưng quan trọng hơn là đời sống người nông dân được đảm bảo, gắn bó họ cùng phát triển bền vững cùng với nghề; là nhìn về phía trước trước yêu cầu phát triển bền vững, một nền nông nghiệp xanh, kinh tế xanh, xã hội xanh. Còn quá nhiều việc phải làm cho những vị trí số nhất, nhì thế giới mà Việt Nam đã chiếm lĩnh.
TRẦN HỮU HIỆP