Rồi đêm sau đón xe từ Đèo Đất về Mường Xén, vẫn cứ máy bay theo sát, xả hàng loạt đạn bom... Cho đến khi về tới Mường Xén thuộc bên này biên giới mới tạm yên. Tôi nhảy xe Binh trạm 11 từ Mường Xén về ga Si, đón tàu về Hà Nội...
Phải nói từ mặt trận về trại viết như về thiên đường. Trại viết ở Công trường 800 (nay là đường Hoàng Quốc Việt), cùng với đoàn chèo tổng cục, lại chuyên tâm chỉ mỗi việc viết lách, có thầy giỏi là những văn nghệ sĩ nổi tiếng kèm tay, lại thêm có ông thầy Tào Mạt nhiệt tình đến mức nửa đêm còn dựng trò dậy hát chèo cho nghe… Với tôi, văn chương đàn hát từ ngày ấy thực sự là thiên đường. Tôi chẳng thiết gì khác ngoài nó. Khổ đau cùng cực hay ăn đói, mặc rách vì nó cũng chẳng sá gì...
Sau trại viết ấy về, một thời gian sau, chi huy binh trạm lại cử tôi ra Hà Nội học một lớp điện ảnh. Ở đây, tôi gặp một cậu tân binh người Tày cũng rất thích làm thơ là Hứa Vĩnh Sước. Thế là cả hai suốt ngày chỉ đàm đạo thơ ca, chở nhau khắp Hà Nội theo đuổi văn chương.
Sau này, Hứa Vĩnh Sước kể lại: “Dạo ấy đang là mùa hè. Việt nhễ nhại đèo tôi bằng xe đạp Thống Nhất đi từ Thanh Trì lên nội thành Hà Nội, dẫn tôi đến ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế. Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi được bước chân vào ngôi nhà Văn nghệ Quân đội. Cảm xúc lâng lâng thật khó tả. Ngạc nhiên có, sờ sợ có, choáng ngợp có. Và người đầu tiên, Việt giới thiệu với tôi là nhà thơ Xuân Sách, sau đó là nhà thơ Văn Thảo Nguyên. Hai nhà thơ chỉn chu, bình dị như mọi người. Thậm chí, họ ít nói về mình, càng không nói gì về thơ văn cả. Trời ơi! Tôi đã đọc họ rồi, còn thuộc khá nhiều bài của họ. Trước khi gặp họ, trong mắt tôi, họ là những người bí hiểm. Đại loại như mấy ông thày mo, thày tào trên quê tôi, kiểu tóc dài, râu dài, móng tay quăn tít như hoa móng rồng. Âm thanh giọng người phát ra như chuông rè, đầy màu sắc mộng mị...”.
Kỷ niệm ấy không bao giờ quên. Nó nhắc đi nhắc lại trong tôi - nhà thơ là thế đó. Bình thường như mọi người. Dễ mắc sai lầm hơn mọi người. Ảo tưởng mơ mộng thì nhiều hơn mọi người. Khóc vì nỗi đau nhân thế nhiều hơn mọi người. Buồn vì tay mình luôn ngắn hơn ống tay áo. Làm thơ có gì sướng, thi nhau lăn lưng vào là sao nhỉ?
2. Năm 2017, tôi lại vào Nha Trang dự một trại viết về người lính, cũng do Nhà xuất bản (NXB) Quân đội tổ chức. Trước khi tham gia trại, tôi có tiểu thuyết Triền dâu xanh ngát và tập truyện ngắn Binh trạm phía Tây in ở NXB Quân đội. Có lẽ thấy tôi tâm huyết với đề tài người lính nên NXB mời tôi tham gia trại sáng tác, cùng các nhà văn, nhà thơ Mai Nam Thắng, Chi Phan, Trầm Hương, Nguyễn Trọng Tân, Nguyễn Minh Ngọc, Lê Huy Quang, Trần Bích Nga, Nguyễn Xuân Hùng, Đỗ Ngọc Yên… Chính ở Nha Trang, tôi vô cùng xúc động gặp lại sư đoàn trưởng đầu tiên của tôi: Thiếu tướng Hà Vi Tùng, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 320b. Thế là tôi lẳng lặng thuê một chiếc taxi, rồi xe ôm, đường loằng ngoằng lắm, tìm đến nhà lưu niệm của thủ trưởng ở xã Vĩnh Phương để dâng hương lên ông. Tôi nhớ lúc thắp hương xong, tôi cứ đứng lẩm nhẩm vừa như báo cáo, lại vừa như tâm sự với sư đoàn trưởng, lại cả đọc thơ cho ông nghe nữa…
Và ngay đêm ấy, trong một niềm xúc động dâng trào, tôi đã viết ký sự Sư đoàn trưởng của tôi, bổ sung ngay để hoàn chỉnh tập sách Một người lính Nam tiến về Thiếu tướng Hà Vi Tùng. Và một tiểu thuyết cũng được hoàn thành trong trại viết. Hai tháng sau, 2 tập sách này đều ra mắt bạn đọc.
3. Trại viết về người lính năm 2019 ở Vũng Tàu, tôi ngồi lặng lẽ trong một căn phòng nhìn ra biển rộng. Văng vẳng bên tai tôi, hòa trong tiếng sóng biển, là lời nhà văn Paustovsky trong truyện ngắn Bụi quý: “Giống như bông hồng vàng của người thợ hốt rác già kia làm ra là để cho Xuyzan được hạnh phúc, sáng tác của chúng ta là để cho cái đẹp của trái đất, cho lời kêu gọi đấu tranh vì hạnh phúc, vì niềm vui và tự do, cho cái cao rộng của tâm hồn và sức mạnh của trí tuệ chiến thắng bóng tối, cho chúng ta rực rỡ như một mặt trời không bao giờ tắt”. Và cả lời nhà văn Đỗ Chu dặn riêng cho nghiệp cầm bút của tôi: “Hãy viết như mẹ em từng đã hát. Ngậm từng chữ, nhả từng câu, đau như lòng tằm và quý phái như tấm lụa tơ tằm. Say mê tột cùng và thương nhớ cũng tột cùng…”.
Và rồi trong sóng biển Vũng Tàu, tôi viết trường ca Dòng sông thơm hương cỏ xương bồ, theo thể thơ 7 chữ cổ kính, đúng như thể thơ nhà thơ Tố Hữu đã viết trường ca Theo chân Bác.
Tôi chỉ thầm nghĩ một điều: Phía trước là kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Tố Hữu - một nhà thơ lớn, người đã có những vần thơ tuyệt vời về đất nước, nhân dân, về những người chiến sĩ, và đặc biệt là về Bác Hồ. Có lẽ nào không có những vần thơ, những trường ca hay đẹp viết về ông? Có lẽ nào tôi không có một bông hồng vàng để kính dâng ông, một nhà thơ lớn, một nhà thơ đã ru hồn thế hệ chúng tôi từ tuổi ấu thơ, đã sát cánh chúng tôi trên con đường ra trận mà thơ ông như tiếng kèn thôi thúc…
4. Và giờ đây, Đà Lạt đã kia rồi, trong mù sương và trong tiếng hát: “Có những chiều thành phố mưa bay/Công viên buồn tượng đá cũng buồn”. Một trại viết của những người lính và về đề tài người lính mở ở đây, người cựu chiến binh là tôi lại ba lô lên đường, cùng những cựu chiến binh là nhà văn tên tuổi của TPHCM: Hà Đình Cẩn, Nguyễn Ngọc Mộc…
Có 2 tập sách cùng đến Đà Lạt với tôi, là trường ca Dòng sông thơm hương cỏ xương bồ, NXB Quân đội, mới in xong còn thơm mùi mực mới đã trân trọng dâng lên nhà thơ lớn Tố Hữu và tập ký sự nghệ thuật Tạm biệt chim én xưa, viết về những năm tháng chiến tranh và những người lính trẻ. Vậy còn gì sáng tác ở trại viết này nhỉ? Thật lòng tôi muốn viết về mẹ tôi, một nghệ sĩ - chiến sĩ đã đi qua 2 cuộc chiến tranh vĩ đại, và viết về trái tim người mẹ trong trái tim nghệ sĩ của bà…
Nơi Đà Lạt mù sương, tôi sẽ bắt đầu tiểu thuyết mới này, dày dặn, thiêng liêng, cung kính. Đối với tôi, hạnh phúc nhất bao giờ cũng là được viết về mẹ, về Tổ quốc, về những người lính và những người nghệ sĩ.