Vốn tín dụng cho nông nghiệp nông thôn còn nghèo nàn, chưa cân đối

Tín dụng ngân hàng những năm qua đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển nông nghiệp nông thôn. Nhờ nguồn vốn tín dụng, các doanh nghiệp, hộ nông dân, trang trại… có điều kiện phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, từng bước hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng khu vực này, nhất là tại ĐBSCL, vẫn còn nhiều rào cản do chính sách thiếu đồng bộ.
Vốn tín dụng cho nông nghiệp nông thôn còn nghèo nàn, chưa cân đối

Tín dụng ngân hàng những năm qua đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển nông nghiệp nông thôn. Nhờ nguồn vốn tín dụng, các doanh nghiệp, hộ nông dân, trang trại… có điều kiện phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, từng bước hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng khu vực này, nhất là tại ĐBSCL, vẫn còn nhiều rào cản do chính sách thiếu đồng bộ.

Nhiều ưu đãi

Theo Vụ Tín dụng (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), từ nhiều năm qua, ngành ngân hàng luôn đẩy mạnh nguồn vốn tín dụng cho ĐBSCL, bởi đây là khu vực quan trọng trong chiến lược an ninh lương thực và xuất khẩu của quốc gia. Tính đến cuối tháng 9-2014, tổng dư nợ tại các tổ chức tín dụng tại khu vực ĐBSCL đạt 332.576 tỷ đồng, tăng 7,64% so với thời điểm cuối năm 2013 và chiếm 8,98% tổng dư nợ cho vay toàn nền kinh tế. Trong khi đó, dư nợ tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn tính đến hết tháng 10-2014 tỷ trọng ở mức trên 20%, gấp đôi so với cuối năm 2011.

Nhờ nguồn vốn tín dụng, nhiều doanh nghiệp, hộ nông dân, trang trại tại ĐBSCL có điều kiện mở rộng sản xuất, chăn nuôi; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; hình thành các vùng sản xuất hàng hóa, khu chăn nuôi tập trung, vùng chuyển đổi nuôi trồng thủy sản, đẩy mạnh khai thác, đánh bắt xa bờ… Riêng với chương trình cho vay liên kết, ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp, từ đầu năm đến nay, các ngân hàng đã cam kết cho 9 doanh nghiệp thực hiện 9 dự án tại 6 tỉnh ĐBSCL vay với số tiền lên tới 2.565 tỷ đồng.

Chế biến cá tra xuất khẩu tại ĐBSCL.

Không chỉ vậy, từ 3 năm qua, Ngân hàng Nhà nước cũng đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ trực tiếp, gián tiếp qua các công cụ chính sách tiền tệ cho nông nghiệp, nông thôn, như: Hỗ trợ tín dụng kinh doanh xuất khẩu gạo; triển khai cho vay thu mua tạm trữ lúa gạo; giãn nợ tối đa 24 tháng, cơ cấu lại nợ cho khách hàng khu vực nông thôn; tham mưu Chính phủ ban hành Quyết định 540 về tín dụng cho tôm, cá tra và gần đây là Nghị định 67 về phát triển thủy sản. Cùng đó, trần lãi suất cho 5 lĩnh vực ưu tiên luôn thấp hơn lãi suất cho vay các lĩnh vực khác 1% - 2%/năm và hiện chỉ còn 7%/năm. Đặc biệt, Ngân hàng Nhà nước cũng chỉ đạo các tổ chức tín dụng cơ cấu lại nợ, miễn, giảm lãi vay, tháo gỡ rào cản vay vốn để các hộ nông dân, doanh nghiệp khu vực nông thôn tiếp cận vốn vay dễ dàng hơn.

Tuy có nhiều ưu đãi nhưng nghịch lý là tăng trưởng tín dụng ở các địa phương khu vực ĐBSCL còn thấp, hiệu quả sản xuất, kinh doanh không cao và nông dân vẫn khó tiếp cận với các chính sách này. Biểu hiện là tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn vùng ĐBSCL đang có xu hướng chững lại. Tốc độ tăng trưởng 6 tháng đầu năm 2014 chỉ tăng trên dưới 8%, giảm so với cùng kỳ năm 2013.

Chính sách chưa đồng bộ

Theo các chuyên gia, mặc dù hiện tại thị trường tài chính nông thôn Việt Nam đang được tiếp nhận nhiều nguồn vốn đầu tư đa dạng như: vốn ngân sách nhà nước; vốn tín dụng nông nghiệp lãi suất ưu đãi đầu tư các dự án; vốn tín dụng lãi suất ưu đãi cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách… Tuy nhiên, các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tại khu vực này còn nghèo nàn. Trong đó chủ yếu là tín dụng truyền thống, các dịch vụ thanh toán, bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm tín dụng nông nghiệp còn rất hạn chế, gần như mới phát triển ở mức thử nghiệm, sản phẩm tín dụng của ngân hàng chưa bao gồm các dịch vụ hỗ trợ đi kèm, các công cụ đầu tư tài chính chuyên nghiệp hầu như chưa có.

Quy trình cung cấp tín dụng còn phức tạp, chưa phù hợp với trình độ của người dân, đặc biệt là các thủ tục liên quan đến tài sản thế chấp là đất đai… Hơn nữa, các nguồn tín dụng đầu tư còn mất cân đối, khả năng huy động vốn tại chỗ chưa cao; sử dụng vốn tín dụng và đầu tư còn bị động, bất hợp lý, dàn trải, chồng chéo, ban phát. Nhiều chương trình, dự án kinh tế không được đầu tư đúng hướng, đúng tiến độ gây thất thoát tài sản… Thậm chí, đến nay chưa có một thống kê đầy đủ, chính xác nào về tổng nguồn vốn đầu tư cho khu vực nông nghiệp, thực trạng và nhu cầu vốn đầu tư cho từng địa bàn, từng đối tượng cụ thể trong nông nghiệp.

Để thay đổi cách tiếp cận, Ngân hàng Nhà nước đang xây dựng chính sách cho vay theo chuỗi, dự án khép kín từ vùng nguyên liệu, sản xuất, chế biến đến tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Tuy nhiên, để làm được điều này thì các chính sách khác của ngành nông nghiệp như quy hoạch vùng, cơ chế chuỗi giá trị..., sàn đấu giá hàng hóa, bảo hiểm nông nghiệp phải đi cùng với nhau nhưng thực tế thì đang… đứng im.

Ví dụ như bảo hiểm nông nghiệp, đã bàn thảo nhiều lần nhưng đến nay, số doanh nghiệp tham gia bảo hiểm nông nghiệp chỉ vài ba đơn vị và sản phẩm rất nghèo nàn. Hơn 3 năm qua, LienVietPostbank và một đối tác từng ký kết hợp đồng bảo hiểm cho vay nông nghiệp nhưng đến nay không một khoản vay nông nghiệp nào của LienVietPostbank được đính kèm bảo hiểm.

Theo các chuyên gia, để nguồn vốn chảy mạnh vào nông nghiệp nông thôn, các bộ, ngành Trung ương cần phối hợp với các địa phương chỉ đạo thực hiện tốt các mô hình liên kết chặt chẽ giữa sản xuất và tiêu thụ nông sản, thủy sản; ổn định và tạo môi trường kinh doanh lành mạnh đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, bao tiêu sản phẩm cho người nông dân. Thực hiện tái cơ cấu kinh tế phải gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh; có chính sách hỗ trợ vốn, ưu đãi tín dụng đối với tổ chức liên kết sản xuất, hợp tác xã, tổ hợp tác.

HÀM LUÔNG - XUÂN QUANG

Tin cùng chuyên mục