Hỏi: Đọc trong truyện nôm Phương Hoa tối tân truyện thấy có câu “Chịu trang áo bực mới là thương liên” (câu 782). Xin giải thích giúp các từ ngữ “áo bực’, “thương liên”.
KIM LIÊN (Đại học KHXH-NV TPHCM)
Ở thế kỷ 17, có một từ bực có nghĩa là “sự buồn” và từ tổ áo bực có nghĩa là “áo tang” (x. Từ điển Việt-Bồ-la của A.de Rhodes). Ngày nay, từ “bực” này còn xuất hiện trong từ ghép buồn bực.
Ngày xưa, còn nhiều từ tổ để chỉ áo tang, như Áo chế; trong Đại Nam quốc âm tự vị Huỳnh Tịnh Của có giải thích cách may: áo vải xổ tròn, để tang cho cha thì trở sống ra, để tang cho mẹ thì trở sống vô. Trong tác phẩm Phạm Công Cúc Hoa, ở đoạn tả quân đội của Phạm Công để tang cho Cúc Hoa có câu sau: Ba quân áo chế cất ma vợ chàng (câu 1628).
Áo gai: áo may bằng vải thô. Trong Ai tư vãn, công chúa Ngọc Hân có tả cảnh mình để tang cho vua Quang Trung.
Đầu mũ mao, mình tấm áo gai (câu 134).
Áo trở (trở: tang; thí dụ: để trở, nhà có trở). Trong truyện nôm Phạm Tải Ngọc Hoa có câu:
Khăn tang, áo trở não nùng (câu 611)
Còn liên trong thương liên là dạng cổ của luôn trong tiếng Việt hiện đại. Trong Từ điển Việt - Bồ - La của A.de Rhodes có giải thích từ liên kèm với thí dụ: Liên: liên tục, không ngừng: học liên (học luôn luôn). Trong Phép giảng tám ngày (1651), A de Rhodes thường dùng từ này:
- Trong ấy mát mẻ liên như hằng mùa xuân.
- Cá cho sống trong nước, mà ở trong nước liên vậy.
Như thế, ý nghĩa của câu thơ bạn hỏi là “Lúc chịu tang mà mặc áo tang mới là luôn thương nhớ (người đã khuất)”.
PGS.TS. Lê Trung Hoa