
Viện Khảo cổ học Việt Nam vừa phối hợp với Bảo tàng Bắc Giang tiến hành khai quật di chỉ Bùi Bến, thuộc địa bàn xã Yên Lư, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Đây là di chỉ khảo cổ học lớn, phân bố trên diện rộng và dài khoảng 1 km, cả ở trong khu dân cư và khu vực bến đò bờ Bắc sông Cầu tiếp giáp tỉnh Bắc Ninh. Qua khai quật, bước đầu các nhà khảo cổ học phát hiện khu lò luyện sắt cổ và nơi cư trú của cư dân một làng cổ có niên đại từ thế kỷ XIII.

Theo tiến sĩ Nguyễn Hữu Hạnh, Phó giám đốc Bảo tàng Bắc Giang, những hiện vật thu được có dấu hiệu của một khu lò luyện sắt cổ, song rất tiếc di tích bị người thời xưa và cả thời hiện đại làm xáo trộn, thay đổi nhiều nên không tìm được cấu trúc lò luyện. Dẫu vậy chúng ta vẫn có cơ sở khẳng định nơi đây là một vùng sản xuất tiểu thủ công nghiệp khá sớm trong lịch sử, bởi ngoài những hiện vật tìm được bên bờ Bắc, các nhà nghiên cứu còn phát hiện những cục xỉ sắt phía đối diện bờ Nam sông Cầu, thuộc địa bàn xã Nhân Hòa, huyện Quế Võ (Bắc Ninh).
Đáng chú ý bên kia sông Cầu có làng Vát có nghề rèn sắt tồn tại từ lâu đời và khá nổi tiếng. Hiện nay, dân gian còn lưu truyền câu: “Bừa Rào, dao Vát” ca ngợi chất lượng sản phẩm của làng nghề này. Phải chăng làng nghề luyện sắt Bùi Bến trên bến, dưới thuyền thuận lợi cho lưu thông sản phẩm đã cung cấp nguyên liệu cho làng Vát phát triển nghề rèn sắt.
Không chỉ có vậy, các nhà khảo cổ học còn khai quật 2 lò nung gạch ngói cổ và phát hiện 4 lò khác xung quanh khu vực bến đò Cung Kiệm. Nghiên cứu bước đầu, các nhà khảo cổ học xác định nơi đây là một công trường sản xuất gạch ngói có quy mô lớn từ cuối thế kỷ XIX và phát triển đến tận ngày nay. Trước đó, sản phẩm tương tự của các lò gạch này đã được giới khảo cổ học tìm thấy ở Cổ Loa và các di tích trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, Lào Cai...
Dựa vào tài liệu thu thập được, tiến sĩ Hà Văn Phùng - Phó viện trưởng Viện Khảo cổ học Việt Nam cho rằng, xưởng sản xuất sắt thủ công ở Bùi Bến hoạt động rất mạnh trong khoảng từ thế kỷ XIII đến cuối thế kỷ XIV, bằng chứng là sự phân bố đậm đặc của các đống xỉ quặng, các dụng cụ dùng trong kỹ thuật luyện kim như ống thông gió, khuôn gốm, vỏ lò luyện sắt, hố than và đất nung dính quặng, vỏ trấu, đinh thuyền, lưỡi câu... tìm thấy trong khu dân cư và đôi bờ sông Cầu.

Một số hiện vật được tìm thấy tại di chỉ Bùi Bến.
Có nhiều khả năng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược, trước nhu cầu cần nhiều vũ khí của quân, dân ta để chống giặc, nghề luyện kim ở Bùi Bến đã đáp ứng đòi hỏi đó. Ngoài ra, các dấu tích cư trú của con người cho thấy nơi này là một làng cổ ven sông khá đông đúc. Hoạt động giao lưu buôn bán, trao đổi hàng hóa trên sông cũng diễn ra nhộn nhịp.
Bằng chứng là các sản phẩm gốm dùng trong sinh hoạt hàng ngày của các làng nghề nổi tiếng trong nước như Phù Lãng, Thổ Hà, Chu Đậu, Hợp Lễ, Móng Cái và đồ gốm Trung Quốc đã được buôn bán tại đây. Tuy nhiên, có thể đã có biến động nào đó nên dấu hiệu cư trú của người xưa ở thế kỷ XV rất mờ nhạt, theo đó nghề luyện kim dần mai một và hoạt động thương mại cũng ngưng trệ. Phải đến thế kỷ XVI nơi đây mới có những kiến trúc đình chùa, nhà cửa với dấu vết tìm thấy là các loại vật liệu kiến trúc như ngói mũi lá, ngói ống, tượng nghê, diềm mái hình hoa sen... Từ thế kỷ XVII trở lại đây việc định cư của con người tương đối ổn định, song lớp cư dân sau này không tiếp tục làm nghề luyện kim nữa.
Với sự xuất lộ một làng nghề luyện kim cổ, thêm một lần nữa các nhà khảo cổ học chứng minh Bắc Giang hôm nay và Kinh Bắc xưa là vùng đất có nhiều nghề thủ công cổ truyền nổi tiếng khắp cả nước.
TRỊNH VĂN ÁNH