“Bà con mình ưng cái đường Bác Hồ…”

“Bà con mình ưng cái đường Bác Hồ…”

Những ánh mắt ánh lên niềm vui vì hạnh phúc và no ấm của đồng bào các dân tộc vùng cao Trường Sơn, hàng loạt “đô thị” lần lượt hình thành giữa đại ngàn xanh thẳm đang phát huy vai trò trung tâm kinh tế, thương mại thực sự của mình làm động lực phát triển cho cả một vùng rừng núi nơi có đường Hồ Chí Minh đi qua. Nhờ có đường Hồ Chí Minh, phía Tây đất nước đang thật sự chuyển mình...

Đường đi qua, ánh sáng điện tràn về

“Bà con mình ưng cái đường Bác Hồ…” ảnh 1

Một góc thị trấn P’rao (huyện Đông Giang, Quảng Nam) nằm trên trục đường Hồ Chí Minh. Ảnh: NGUYÊN KHÔI

Đường Hồ Chí Minh mở ra thông suốt, những dự án thủy điện công suất lớn “ăn theo” đang sừng sững mọc lên trên rẻo cao phía Tây Tổ quốc. Khơi mào cho hàng loạt các dự án thủy điện đó là Nhà máy thủy điện A Vương 1 (với tổng mức đầu tư ban đầu gần 4.000 tỷ đồng) nằm trên địa bàn huyện Đông Giang tỉnh Quảng Nam.Theo tính toán, nhà máy này khi phát điện sẽ cung cấp lượng điện năng hàng năm là 815 triệu KWh.

Ngoài A Vương, tại Đông Giang còn có Nhà máy thủy điện Zà Hung; ở huyện Phước Sơn còn có Nhà máy thủy điện Đăk Mi 4…, tất cả đều đang được gấp rút thực hiện để có thể bắt đầu phát điện vào các năm 2009, 2010.

Theo một vị lãnh đạo của tỉnh Quảng Nam, sau khi giai đoạn 1 Dự án đường Hồ Chí Minh hoàn thành, Quảng Nam có 55 dự án thủy điện được phê duyệt quy hoạch dọc theo đường Hồ Chí Minh, trong đó 10 dự án thủy điện lớn với tổng công suất 1.094 MW, 45 dự án thủy điện vừa và nhỏ công suất gần 400 MW. Cùng với sự hiện diện của đường Hồ Chí Minh, ánh sáng điện cũng đang nhanh chóng thay cho ánh sao trời rọi sáng cuộc sống mỗi ngày của bà con nơi miền núi cao phía Tây của Tổ quốc. Chẳng thế mà gặp bất kỳ người Pa Cô, Tà Ôi, Cơ Tu, Vân Kiều, Mã Liềng hay Khùa, Rẻ Triêng… sống dọc đường Hồ Chí Minh hôm nay, ai cũng nói: có đường Bác Hồ mình ưng cái bụng, sướng cái chân lắm. Nhờ có đường, mình biết đi xe máy, biết điện sáng, nghe tiếng người cả nước, biết làm lúa nước để có cái ăn…

Đi trên đường Trường Sơn, qua Đắk Tô - Tân Cảnh, vượt qua đèo Lò Xo mây mù bao phủ là đến thị trấn Khâm Đức của huyện Phước Sơn tỉnh Quảng Nam – nơi được coi là “thành phố” trong rừng trù phú, tấp nập nhất trong số các “thành phố” dọc tuyến đường Hồ Chí Minh.

Từ ngày có đường Hồ Chí Minh, Phước Sơn như được chắp thêm cánh để phát triển. Giao thông thuận tiện đã khiến việc mua bán, làm ăn của người dân Phước Sơn dễ dàng hơn, hiệu quả hơn rất nhiều. Chỉ tính riêng năm 2007, thu nhập bình quân/năm đã đạt gần 3 triệu đồng/người, một con số chỉ có trong mơ trước đây của hầu hết người dân sống trên rẻo cao Trường Sơn. Tỷ lệ hộ nghèo của Phước Sơn từ khi có “đường Bác Hồ” mỗi năm giảm được 5%-6%. Đường Bác Hồ đi qua đã kéo điện quốc gia về cho 9/11 xã, thị trấn của Phước Sơn. Cũng nhờ con đường hiện đại này mà 11/11 xã, thị trấn và 65/65 thôn của Phước Sơn đã phát triển được trường lớp, quy tụ được trên 6.000 học sinh theo học ở cả 3 cấp học phổ thông…

Từ “xương sống” là đường Hồ Chí Minh, đến nay, toàn Phước Sơn đã có mạng lưới giao thông xương cá gồm 58km đường huyện và trên 100km đường giao thông nông thôn. Đảng bộ, chính quyền và người dân Phước Sơn đang hướng đến một thị xã phố núi tận vùng cao phía Tây Trường Sơn hiện đại hơn, giàu có hơn nữa trong một tương lai không xa!

Hết cuộc sống lang thang

Ở xã Thanh Hóa (huyện Tuyên Hóa tỉnh Quảng Bình), từ ngày đường Hồ Chí Minh đi qua, người Mã Liềng ở bản Cáo, bản Kè nghe theo lời cán bộ đã rời rừng, bỏ cuộc sống du canh du cư bữa đói bữa no ra lập làng sống ổn định ở gần đường. Mã Liềng tiếng dân tộc có nghĩa là “đại bàng”. Xa sự trầm lắng nơi vùng rừng thâm u, những người con đại bàng này tiếp xúc dần với lối sống mới. Họ dần học được cách trồng lúa nước, nuôi bò, nuôi trâu trong chuồng của người miền xuôi. Học cả cách giao thương, mua bán.

Ông Cao Dụng, trưởng bản Kè, nói: “Không có con đường, đồng bào mình gắn chặt với rừng rậm, với cái sông cái suối. Từ khi có con đường Bác Hồ, cả bản đã ra sống cách đường hai cây số. Cách đường chừng đó là tốt vì như thế nuôi trâu bò không chạy rông ra đường, gây khó khăn cho xe qua lại. Cách đường như thế cũng thuận tiện cho bà con làm cái ruộng, cái nương, trồng thêm lúa, thêm ngô. Từ ngày có đường, sắn, ngô của dân tộc mình được người dưới xuôi lên mua giá cao, bà con mua lại vải, muối… Cái bụng mình thích, dân bản thích…”.

Còn ông Cao Văn Viên, trưởng bản Cà Xen, xởi lởi: “Trước đây sống trong rừng rậm, cái chân giẫm nát bao cánh rừng, mòn mấy bờ đá suối mà nghèo lắm. Nay có đường Hồ Chí Minh, bà con hết lang thang, cán bộ miền xuôi có mặt thường xuyên ở bản hướng dẫn cách làm, cách sống, bà con mình giờ ăn ở sạch sẽ, có lúa ngô đầy nhà, mùa giáp hạt không lo đói bụng. Trẻ con của dân mình có đường đi học. Rứa là tộc người mình được đổi đời rồi đấy!”.

“Bà con mình ưng cái đường Bác Hồ…” ảnh 2

Mỗi ngày, những trẻ em người dân tộc Cà Tu vùng Tây Quảng Nam này đều theo đường Hồ Chí Minh đến trường, nuôi con chữ và nhiều ước mơ tươi sáng. Ảnh: HÀ MINH

Những ngày lưu lại trên tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn từ Quảng Bình về Quảng Nam qua Kon Tum, chúng tôi nghe nhiều chuyện vui của bà con các dân tộc trên rẻo cao Trường Sơn, trong đó, có lẽ câu chuyện của A Lăng Ban, Chủ tịch UBND xã Mà Cooih huyện Đông Giang (Quảng Nam) là câu chuyện mà chúng tôi nhớ nhất.

Trước năm 1998, ông được triệu tập về huyện Hiên (cũ) để nghe triển khai kế hoạch sản xuất nông nghiệp và cách thức chuyển đổi làm lúa rẫy qua lúa nước về hướng dẫn cho bà con. Lúc đó, chưa có đường Hồ Chí Minh. Bước chân ông luồn rừng, lội suối, đi không ngơi nghỉ mất gần 7 ngày trời mới đến được trung tâm huyện. Họp xong, trời đổ mưa to suốt cả tuần, nước từ thượng nguồn đổ về làm các con suối dâng cuồn cuộn, đất đá từ núi cao sạt lở. Đường về bản bị tắc, ông phải nằm chờ gần nửa tháng ở huyện, lòng như lửa đốt.

Nước vừa bắt đầu rút, ông vội vã băng rừng vượt núi về xã, tổ chức họp dân để phổ biến kế hoạch và kỹ thuật trồng lúa nước thì mới hay, cây bắp, cây lúa bà con đã mang ra trỉa từ lâu trên rẫy và cây cũng đã lên xanh! A Lăng Ban dở khóc dở cười.

“Nay thì khỏe rồi. Có đường, mình chạy xe máy khoảng 30 phút là đến trung tâm huyện, nghe cán bộ phổ biến cách làm ăn, nói chính sách mới của Đảng, Nhà nước, mình về truyền đạt ngay trong ngày cho bà con, không sợ trễ...”.

Và đôi điều trăn trở...

Tuyến đường Hồ Chí Minh đang từng bước phát huy sứ mệnh mới của mình. Tuy nhiên, cũng còn đó nhiều điều trăn trở…

Là đoạn được xem là “kinh tế” nhất trên toàn tuyến phía Tây đường Hồ Chí Minh nhưng theo Khu quản lý đường bộ V, đoạn đường từ Quảng Nam đến Kon Tum lại có đến 16 vị trí thường xuyên bị sụt, trượt trong mùa mưa. Tuyến đi qua toàn tỉnh Quảng Nam thì có hơn 100 điểm bị sạt lở, trong đó mới chỉ có trên 20 điểm đã sửa chữa, thi công xong, các điểm còn lại vẫn đang làm hoặc mới trong giai đoạn chuẩn bị sửa chữa.

Ngược ra phía Bắc, cung đường Hồ Chí Minh đoạn từ đường 9 (Quảng Trị) đến Bắc Sơn (Tuyên Hóa, Quảng Bình) xuyên qua các địa phương Hương Khê, Vũ Quang (Hà Tĩnh), Thanh Chương, Tân Kỳ (Nghệ An), Như Xuân (Thanh Hóa) nếu ở nhánh Đông dài gần 700km có địa hình tương đối ổn định thì ở nhánh Tây, nhất là đoạn từ Bắc Sơn vào đèo Đá Đẽo của Quảng Bình, qua Khe Sanh của Quảng Trị rồi vượt cầu Đakrông vào A Lưới (TT-Huế), lại là cung đường hết sức khắc nghiệt, thường xuyên đối mặt với sạt lở gây tắc đường hoặc làm cô lập các vùng dân cư ở đây với nơi khác vào mỗi mùa mưa bão.

Tình trạng sạt lở thường xuyên trên một số cung đoạn của đường Hồ Chí Minh như đã nói ở trên dẫn đến một hệ quả: nhiều tài xế ngán ngại khi phải cho xe lưu thông trên con đường này. Theo một thống kê về đếm xe cách đây chưa lâu của Công ty cổ phần Quản lý và xây dựng đường bộ Quảng Nam - Đà Nẵng, trong vòng 24 giờ trên đường Hồ Chí Minh, lượng xe qua lại trạm Khâm Đức thuộc huyện Phước Sơn (Quảng Nam) là 49 lượt xe khách loại nhỏ, 38 lượt xe khách loại lớn.

Cùng thời gian đó, trên tuyến quốc lộ 1A đoạn qua trạm Quế Sơn thuộc huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam lại có đến 315 lượt xe khách loại nhỏ, 362 lượt xe khách loại lớn. Như vậy, lượng phương tiện giao thông đi qua đường Hồ Chí Minh so với quốc lộ 1A vẫn còn khá khiêm tốn.

Theo ông Phạm Quang Hải, Phó Giám đốc Sở Giao thông Vận tải Quảng Bình: “Hiện tại, chúng tôi chỉ mới khai thác tiềm năng của các tuyến xe khách nội tỉnh trên đường Hồ Chí Minh, còn các tuyến đường dài trên cung đường này vẫn rất hạn chế do địa hình của con đường khá hiểm trở, lại có nhiều điểm sạt lở, Ngoài ra, dịch vụ hai bên đường Hồ Chí Minh chưa đáp ứng được yêu cầu đa dạng của nhà xe vận chuyển đường dài. Đây cũng là yếu tố quan trọng khiến con đường mất tính hấp dẫn”.

Thời gian qua, Chính phủ đã có các quyết định về tài chính chi bổ sung các hạng mục nhằm bền vững hóa công trình và tăng hiệu quả khai thác trên đường Hồ Chí Minh. Nhờ các quyết định kịp thời này mà đến nay, về cơ bản, mức độ sạt lở lẫn thời gian tắc đường trên các cung đường trọng điểm đã giảm.

Mặt khác, thực hiện theo yêu cầu của Chính phủ, các bộ ngành như Bộ Giao thông Vận tải và Tổng cục Du lịch đã dự kiến kế hoạch phối hợp để xây dựng các trạm nghỉ, khu dịch vụ dọc hai bên đường Hồ Chí Minh trên cơ sở quy hoạch về xây dựng dọc theo đường Hồ Chí Minh của Bộ Xây dựng; việc thực hiện dự án tuyến cáp quang nhằm tăng cường thông tin trên toàn tuyến của Bộ Thông tin – Truyền thông; việc thiết lập các điểm cung cấp xăng dầu dọc tuyến của Bộ Công thương… cũng đã và đang được tiến hành.

Như vậy, một ngày không xa nữa đường Hồ Chí Minh sẽ hội đủ hơn các điều kiện để trở thành quốc lộ huyết mạch thứ hai của đất nước. Ngày ấy, đường Hồ Chí Minh chắc chắc sẽ đông hơn, vui hơn và cũng sẽ “làm tròn” hơn sứ mệnh của mình: góp phần phát triển vùng cao phía Tây của Tổ quốc…  

HÀ - MINH - NGUYÊN

Tin cùng chuyên mục