Nguồn nhân lực ở TPHCM: thừa cục bộ, thiếu tổng thể

Bài 1: Cung ép cầu hay cầu ép cung?

Sau kỳ “vượt vũ môn” khốc liệt và hơn 4 năm học hành vất vả, hàng chục ngàn sinh viên tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng (ĐH, CĐ) lại không thể kiếm được việc làm đúng ngành nghề đã được đào tạo. Theo dự báo, đến năm 2005, TPHCM cần bổ sung gần 69.000 lao động có trình độ ĐH, CĐ trở lên, trong đó có 3.400 thạc sĩ và 350 tiến sĩ. Như vậy, nhìn một cách tổng thể, nguồn nhân lực có trình độ ở TPHCM vẫn đang rất thiếu, song đào tạo ra lại bị thừa. Vì sao?
Bài 1: Cung ép cầu hay cầu ép cung?

Sau kỳ “vượt vũ môn” khốc liệt và hơn 4 năm học hành vất vả, hàng chục ngàn sinh viên tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng (ĐH, CĐ) lại không thể kiếm được việc làm đúng ngành nghề đã được đào tạo. Theo dự báo, đến năm 2005, TPHCM cần bổ sung gần 69.000 lao động có trình độ ĐH, CĐ trở lên, trong đó có 3.400 thạc sĩ và 350 tiến sĩ. Như vậy, nhìn một cách tổng thể, nguồn nhân lực có trình độ ở TPHCM vẫn đang rất thiếu, song đào tạo ra lại bị thừa. Vì sao?

  • Cử nhân…“vô dụng”, tiến sĩ “3 không”
Bài 1: Cung ép cầu hay cầu ép cung? ảnh 1

Sinh viên ĐH Khoa học tự nhiên thực tập trong phòng thí nghiệm.Ảnh: MAI HẢI

Sau hơn 4 năm học tại khoa Sinh (Trường ĐH Khoa học tự nhiên TPHCM), Nguyễn Thị Mai đã tốt nghiệp với tấm bằng loại trung bình khá. Ngoài bằng ĐH, cô còn có các chứng chỉ tin học và Anh văn trình độ B, chứng chỉ đã học 120 tiết chuyên môn sư phạm. Thế nhưng, qua gần 2 năm gõ cửa không biết bao nhiêu cơ quan, đơn vị đến bây giờ Mai vẫn tiếp tục “ở không” và lãnh lương… nhà để đi xin việc. Còn Lê Hà, tốt nghiệp khoa Quản trị kinh doanh Trường ĐH Kinh tế thì đã có “thâm niên” 4 năm chờ việc. Hà không nhớ nổi đã gửi đơn ở bao nhiêu nơi và qua không biết bao nhiêu lần phỏng vấn. Lần gần đây nhất là ngày 11-7, cô được một công ty TNHH mời đến phỏng vấn nhưng đến giờ vẫn chưa có hồi âm.

Nguyễn Thị Mai, Lê Hà… chỉ là hai trong hàng chục ngàn cử nhân ra trường mỗi năm bổ sung thêm vào đội ngũ lao động đang thất nghiệp của TPHCM. Theo Sở Lao động Thương binh-Xã hội TPHCM, hàng năm số lao động tốt nghiệp đại học có nhu cầu tìm việc nhưng chưa bố trí được việc làm khoảng từ 8.000-10.000 người; số sinh viên tốt nghiệp đại học ra trường đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động chỉ chiếm khoảng 25%. “Thật xót xa khi chúng ta tốn biết bao tiền của để đào tạo được một sinh viên đại học nhưng khi ra trường lại thành vô dụng!” – Giáo sư-viện sĩ Phạm Minh Hạc đã thốt lên tại một cuộc hội thảo về quản lý nguồn nhân lực tổ chức ở TPHCM.

Nếu ở bậc ĐH, CĐ có nhiều cử nhân ra trường thất nghiệp thì không ít thạc sĩ và tiến sĩ lại rơi vào tình trạng “3 không”: không có việc cụ thể để làm; không có đề tài cụ thể để nghiên cứu; không có thu nhập chính từ cơ quan khoa học. Với nhiều người, cơ quan chỉ là nơi dán cho họ cái “mác” để làm thêm ở chỗ khác. Thạc sĩ Đ.L là một ví dụ. Anh đang làm cán bộ nghiên cứu ở một cơ quan khoa học nhưng công việc chính của anh lại là… tư vấn cho một công ty nước ngoài! Anh nói: “Cả năm mới có một đề tài cấp viện, kinh phí vài triệu đồng cho 6 người tham gia…”.

  • Cung-cầu: “Đồng sàng dị mộng”

Trên địa bàn TPHCM hiện có gần 40 trường ĐH, chiếm khoảng hơn 26% tổng số các trường ĐH trong cả nước. Bên cạnh đó, có 25 cơ sở đào tạo cao đẳng, trong đó có một số trường ĐH cũng có đào tạo hệ CĐ … Theo các chuyên gia, mạng lưới các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau, đào tạo hơn 60 ngành mang tính chất truyền thống của từng trường nhưng hầu như khép kín trong mỗi trường. Cơ cấu ngành nghề của các trường rất phân tán, hoạt động một cách độc lập với nhau. Chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm cho các ngành do cấp bộ quyết theo đề nghị của các trường, chưa gắn kết với nhu cầu thực tế của thành phố. Điều này góp phần làm tăng thêm sự bất cập trong đào tạo nguồn nhân lực.

Nhìn vào tổng thể nguồn nhân lực có trình độ ĐH, CĐ ở TP hiện nay, có thể thấy rõ cung lớn hơn cầu. Do đó có xu hướng cầu “ép” cung, coi cung như là lực lượng dự bị, thường trực luôn sẵn sàng chấp nhận làm việc với bất cứ điều kiện nào do người sử dụng nhân lực đưa ra. Nhiều ngành nghề cầu đã “đụng trần” nhưng cung vẫn tiếp tục… sản xuất! Trong khi đó lại có nhiều ngành không tuyển được đủ lao động, nhất là các ngành đòi hỏi trình độ kỹ thuật và công nghệ cao, các ngành công nghệ mũi nhọn như điều khiển tự động, công nghệ vật liệu và công nghệ sinh học. Rõ ràng, cầu và cung trong đào tạo và sử dụng nhân lực luôn trong tình trạng “đồng sàng dị mộng”!

Bài 1: Cung ép cầu hay cầu ép cung? ảnh 2

Nét mặt rạng rỡ của sinh viên trong ngày lễ tốt nghiệp.

Thiếu và yếu là nhận định chung đối với nhiều cơ sở đào tạo đại học. “Thời gian gần đây, sự đầu tư của nhà nước cho môi trường giáo dục có tăng lên đáng kể, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng dù ở mức trung bình cho việc đào tạo KHKT” - nhóm chuyên gia thực hiện đề tài “Xây dựng chương trình phát triển giáo dục đại học-sau đại học phục vụ nguồn nhân lực cho TPHCM giai đoạn 2001-2005” nhận định. Trường ĐH Bách khoa là trường có sự đầu tư chiều sâu ưu tiên của nhà nước cũng không quá 7 tỉ đồng/năm. Số tiền này chỉ đủ mua mỗi năm một vài thiết bị tương đối hiện đại.

Trong khi đó, bình quân kinh phí đào tạo cho một sinh viên theo chỉ tiêu ngân sách hiện nay là 5.200.000 đồng cho khối ngành kinh tế; 6.300.000 đồng cho khối ngành tự nhiên và xã hội nhân văn; 5.900.000 đồng cho khối ngành kỹ thuật –công nghệ. “Tiền nào của đó” - một giáo sư nhận xét. Nội dung, cấu trúc chương trình, phương pháp dạy hiện nay chưa thể tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao. “Hầu hết sinh viên ngành CNTT bị rơi vào tình trạng “cái gì cũng biết nhưng không biết cái gì”. Qua số liệu tuyển dụng của Tổng Công ty Paragon Solution Vietnam trong vòng một năm nay cho thấy, chỉ có 5% ứng viên được nhận vào làm việc” - ông Ngô Hùng Phương, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Paragon Solution Vietnam cho biết.

Đào tạo sau đại học cũng không ít bất cập, chất lượng đào tạo một số ngành còn thấp. Bên cạnh đó là tình trạng mất cân đối về cơ cấu, một số ngành quá đông học viên, trong khi đó một số ngành kỹ thuật, khoa học cơ bản rất cần thiết thì rất ít học viên. Chương trình đào tạo 300 thạc sĩ, tiến sĩ được triển khai khá rầm rộ nhưng đến nay tiến độ nhìn chung còn chậm. Đã có 177 người được duyệt nhưng chỉ mới có 82 người đi học. Có tình trạng này là vì “duyệt là một chuyện, còn đi học được hay không lại liên quan đến khả năng ngoại ngữ của các ứng viên và nước ngoài họ có chấp nhận hay không. Đáng chú ý, nhiều ngành như Quản lý giáo dục, Quản lý văn hóa, Quản lý bất động sản… không tuyển được hoặc tuyển được rất ít học viên. Hệ quả là đào tạo sau đại học mới chỉ đáp ứng được một phần của yêu cầu xây dựng và phát triển của thành phố.

HỒNG QUÂN – TRẦN TOÀN

Tin cùng chuyên mục