Giữa hai tín hiệu tử thần

Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn tên lửa 81 Phạm Sơn năm nay đã 96 tuổi. Ông ngồi lặng lẽ trên chiếc ghế gỗ cũ kỹ trong ngôi nhà gần khu gia binh của Quân chủng Phòng không - Không quân. Khi chúng tôi hỏi về trận đánh đau thương nhất ở Vĩnh Linh (tỉnh Quảng Trị), ánh mắt ông vụt sáng lên, xong lại chùng xuống. “Thịnh ngồi ngay bên tôi, ngồi sát vai như thế này, nó chết trên tay tôi đấy…”, ông run run rồi lặng im, như thể những ký ức từ hơn nửa thế kỷ trước trong xe điều khiển tên lửa đang ào về, chen chúc, chật chội và ngột ngạt mùi dầu máy.

CN4 B.jpg
Liệt sĩ Lê Hồng Thịnh

Người sĩ quan điều khiển trẻ tuổi ấy - Lê Hồng Thịnh, đã ngã xuống giữa trận địa rực lửa, khi tên lửa Shrike từ máy bay Mỹ lao thẳng vào xe chỉ huy. Nhưng trước khoảnh khắc định mệnh đó, anh vẫn bình tĩnh điều khiển quả đạn của ta đến trúng mục tiêu, bắn cháy máy bay địch.

“Thủ trưởng, ăn chắc nhé!”

“Đó là buổi sáng 18-5-1967 - trận đánh đầu tiên của Tiểu đoàn 81 ở đất Vĩnh Linh”, từ cuốn hồi ký cũ đã ố vàng, tôi đọc được những dòng chữ nguệch ngoạc mà đầy khí phách của người chỉ huy. “…Tôi ngoắc tay với Thịnh, một sĩ quan điều khiển trẻ thông minh và có kinh nghiệm, nói nhỏ: Ăn chắc nhé. Nó gật đầu, dứt khoát: “Ăn chắc!”. Thế nhưng giữa rừng bom đạn, cái “ăn chắc” nhất không phải là chiến thắng, mà là nguy cơ bị xóa sổ bất cứ lúc nào.

Thực hiện lời dạy của Bác Hồ, “muốn bắt cọp phải vào tận hang”, giữa năm 1966, Trung đoàn tên lửa 238 gồm 4 tiểu đoàn hành quân vào Vĩnh Linh, Quảng Trị chiến đấu, học cách đánh B-52, bởi theo nhận định của Bác và Trung ương Đảng “sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra ném bom miền Bắc”. Thời điểm đó, Vĩnh Linh được mệnh danh là “vành đai lửa” vì liên tục bị oanh tạc bởi không quân, hải quân và pháo binh địch.

CN4 C.jpg
Cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 81 huấn luyện cách tháo, nạp tên lửa. Ảnh: Tư liệu

Quãng đường từ Hà Nội vào tới Vĩnh Linh chỉ khoảng 600km nhưng Trung đoàn 238 hành quân gần 4 tháng trời, phần lớn phải đi theo đường chiến lược mới mở, có nhiều đèo dốc, khe sâu, địch thường xuyên khống chế, đánh phá ác liệt. Tên lửa vốn được sinh ra để cố định bảo vệ yếu địa, ấy thế mà vào tới chiến trường phải liên tục cơ động trận địa. Xe chỉ huy trông như một lùm cây lớn, quả đạn nằm trên bệ phóng cũng là một cành cây khổng lồ. Trời nóng, cây héo lại cắt cử người tưới nước, thay lá, ngày 2-3 bận. Mỗi lần mở máy phát điện khói dày đặc, hàng chục người lại đứng quạt cho khói tản ra, tránh lộ trận địa. Mãi sau này nghĩ ra cách đào hào dẫn khói như bếp Hoàng Cầm, mới đỡ cực. Thế nhưng, hơn tất cả, thứ ám ảnh nhất đối với bộ đội chính là “tên lửa Shrike”, hung thần truy diệt sóng ra-đa. Khi bộ đội phát sóng ra-đa để tìm mục tiêu cũng là lúc Shrike từ máy bay địch phóng ra, bám theo sóng ra-đa, lao thẳng vào trận địa của ta với sức công phá vô cùng lớn. Trận địa nào đã trúng Shrike, chắc chắn mất khả năng chiến đấu. Vậy, bộ đội có dám mở máy phát sóng để đánh địch không? Câu trả lời có trong xương máu của gần 400 liệt sĩ Trung đoàn 238 nằm lại chiến trường…

Trận đánh cuối cùng

Ngày 11-7-1967, Tiểu đoàn 81 đánh trận thứ 4. Trời miền Trung gió Lào quạt lửa. Trong xe điều khiển hầm hập mùi mồ hôi và mùi dầu máy, Tiểu đoàn trưởng Phạm Sơn ngồi sát bên Lê Hồng Thịnh để chuyển tiếp lệnh chỉ huy. Các trắc thủ cự ly, phương vị, góc tà đã sẵn sàng vào trận. Lê Hồng Thịnh, sĩ quan điều khiển, sẽ là người bấm nút khai hỏa tên lửa và điều khiển nó đến mục tiêu. Bầu không khí căng thẳng đến ngộp thở.

Trên màn hình quang xuất hiện tín hiệu của tốp máy bay địch. Thịnh chăm chú lắng nghe thông số từ các trắc thủ để chọn điểm ngắm. “Đây rồi!”, Thịnh khẽ reo thầm, anh bấm nút “phóng”. Quả tên lửa rời bệ. Nhưng đột nhiên, trên màn hình hiện lên cùng lúc 2 tín hiệu: máy bay địch và tên lửa Shrike từ máy bay địch đang lao về phía trận địa. Thịnh đổ mồ hôi lạnh. Ngay lúc này, anh có thể tắt ra-đa để ngắt sự đeo bám của Shrike, nhưng điều đó có nghĩa là quả tên lửa của ta cũng mất định hướng và rơi xuống. Mục tiêu sẽ thoát. Trận đánh sẽ thất bại. Giữa 2 tín hiệu tử thần, Thịnh chọn hy sinh. Anh tin rằng tên lửa của ta sẽ đến mục tiêu trước khi quả Shrike kia kịp lao tới. Một tiếng nổ dữ dội vang lên, khói đen trùm kín trận địa. Tên lửa của ta chạm mục tiêu trước, hạ đo ván máy bay địch.Thế nhưng, Shrike lúc này đã quá gần trận địa, dù mất phương hướng nhưng vẫn lao thẳng vào xe điều khiển theo quán tính. Các mảnh vỡ từ vụ nổ bay tung tóe, một mảnh găm thẳng vào ngực Thịnh. Anh gục vào lòng Tiểu đoàn trưởng Phạm Sơn, hy sinh ngay tại chỗ.

Trong trang nhật ký còn dang dở, Lê Hồng Thịnh viết: “Chiến trường ngày càng ác liệt nhưng mình quyết không lùi bước. Nếu mình hy sinh, hãy đặt mình nằm quay đầu về phương Nam để mình được tiếp tục cùng đồng đội chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước…”.

Mong muốn của Thịnh cũng như khát vọng chính đáng của toàn dân tộc đã được đồng đội anh biến thành hành động. Dồn hết căm thù, ý chí và kinh nghiệm phải đổi bằng xương máu lên bệ phóng, đúng 15 giờ 30 phút ngày 17-9-1967, Tiểu đoàn 84 đã hạ gục pháo đài bay B-52 đầu tiên ở chiến trường Việt Nam bằng 2 quả đạn, thực hiện xuất sắc lời dạy của Bác Hồ và kết thúc chương sử bi tráng nhất của Trung đoàn 238. Đó không chỉ là cuộc hành quân đánh giặc, mà còn là cuộc chiến đấu với sự khắc nghiệt của thiên nhiên, kỹ thuật, bệnh tật và cả hy sinh, để giữ lấy trận địa chiến lược, chọc thủng vành đai lửa của không lực Hoa Kỳ, xây dựng và hoàn thiện cẩm nang chiến đấu với B-52 cho toàn lực lượng.

Khi lịch sử nhắc đến “Điện Biên Phủ trên không”, người ta thường nghĩ đến Hà Nội, nhưng dưới bầu trời Vĩnh Linh từng có những chiến địa đỏ lửa, hứng chịu tất cả đau thương, thử thách và hy sinh để sau này Hà Nội có thể hiên ngang ngẩng cao đầu chiến thắng.

Tác giả PHẠM KHẮC LƯỢNG

Bình chọn bài viết

Bài viết mới