
Từ ngày khoác chiếc áo trắng tinh khôi, sau lưng có in hình chữ thập đỏ đến giờ đã ngót nghét 7 thập kỷ. Ấy vậy mà cụ Thái Văn Thành (thị trấn Chũ, Lục Ngạn, Bắc Giang) - người cả cuộc đời say mê với cái nghề “từ thiện” vẫn giữ được như mới.

Ông Thái Văn Thành bên chiếc blouse có in hình chữ thập đỏ.
1. Dọc theo quốc lộ 5, rồi đi lên con đường núi đầy ổ voi, ổ trâu. Chúng tôi dừng lại ở thị trấn Chũ (Lục Ngạn, Bắc Giang). Hỏi thăm nhà ông Thái Văn Thành, 83 tuổi hay làm việc thiện thì ai cũng biết. Họ nhiệt tình dẫn chúng tôi đến tận nhà ông.
Gặp ông, da mắt nhăn nheo bọc lấy tia nhìn như có “lửa” khiến chúng tôi bất ngờ. Ông còn khỏe, dẻo dai lắm. Tay chân hoạt bát và bước đi nhanh nhẹn. Ngẫm nghĩ ở đời, nhiều khi cay cú vì sự bất công mà người đời thường hay nói: “Người tốt hay chết yểu, còn bọn gian ác cứ sống nhăn răng”. Nhưng khi gặp ông tôi không nghĩ thế. Có lẽ vì những việc tốt ông làm đã động đến lòng trời nên ông trời trả công cho ông bằng cái sức khỏe dẻo dai, minh mẫn.
Ông vào trong căn buồng nhỏ, lật tìm và đem ra một chiếc áo. Trông nó như một chiếc blouse mà y tá trong những bộ phim thời chiến tranh chống thực dân Pháp thường mặc. Chỉ có điều, áo có hình chữ thập đỏ được khâu cẩn thận đằng sau lưng áo. Chiếc áo không bị mốc, không úa màu,tuy màu sắc có phần nhạt đi và vải đã sờn đôi chút. Nhìn chiếc áo, không ai nghĩ ông đã gìn giữ nó suốt 70 năm qua.
Rồi ông kể cho chúng tôi nghe chuyện về chiếc áo, cũng như hành trình làm từ thiện của ông từ ngày còn trẻ.
2. Từ ngày đất nước giải phóng đến giờ, người dân Chũ không còn thấy xa lạ với hình ảnh một ông lão dáng người nhỏ nhắn, trên mình khoác chiếc áo trắng có in hình chữ thập đỏ sau lưng, bởi không có ngóc ngách nào ông chưa đi tới. Ông đi xin tiền thiên hạ, nhưng không phải xin cho mình mà xin cho người nghèo. Nói vậy, không có nghĩa là ông giàu. Có chăng là giàu cái đức, cái tâm. Ông kể, vẫn cái giọng Đà Nẵng quê ông ngọt như mía lùi: “Khi làm cái nghề này, gia đình, hàng xóm không có ai ủng hộ tui hết. Họ bảo nhà mình còn rách, ăn còn chả đủ mà từ thiện cái nỗi gì. Nhưng cụ Hồ, cụ dạy rồi, việc gì nhỏ nhất có lợi cho dân thì cứ làm, việc gì có hại cho dân thì chết cùng không làm. Mình làm việc thiện, mình giúp đỡ người nghèo thì mình sướng cái tâm mình thôi”.
Rồi sau đó là những tháng ngày ông thuyết phục gia đình, động viên xóm làng ủng hộ ông, cho ông được làm cái nghề mà ông yêu quý thời còn là một cậu bé. Tham gia cách mạng từ thời tiền khởi nghĩa (1944), cũng từ đó ông gắn với nghề làm từ thiện, cũng là cái ngày đầu tiên ông khoác chiếc áo kiểu blouse của mình.
Kể về cái áo, ông bảo: “Chữ thập này là chị ấy khâu cho tôi bị sai, chứ không phải thế này đâu. Hình đúng của nó là 4 góc xung quanh phải hình vuông, bằng cái hình vuông ở tâm, chứ không phải hình chữ nhật thế này đâu nhé. Nhưng suy cho cùng nó chỉ là hình biểu trưng thôi, còn việc mình làm phải thực tế, phải cụ thể thì dân người ta mới tin, mới nghe theo”.
Hành động đã chứng minh lời nói của ông đúng. Mấy chục năm nay, ông vẫn gắn bó với cái nghề của mình và ngày càng đam mê với nó. Đến giờ, khi đã ở cái tuổi gần đất xa trời ông vẫn không thể bỏ được.
3. Khi đất nước giải phóng, ông về thị trấn Chũ định cư. Từ đó, ông công tác trong Hội Chữ thập đỏ huyện Lục Ngạn và là một trong những hội viên hoạt động nhiệt tình nhất. Tâm sự về nghề, ông bảo, nghề của ông là nghề “đi xin cho người”.
Ngày trước, ông đi xin tiền thiên hạ ai cũng cảnh giác, lảng tránh. Người ta nói ông lừa đảo, không biết xấu hổ, ngày nào cũng vác mặt đi xin tiền. Chỗ này, chỗ nọ người ta chê ông, khinh ông, không ai tin ông. Nhưng không vì thế ông nản chí, ông vẫn tiếp tục đi xin, tiếp tục giải thích. Dần dần, cũng có 1, 2 người tin ông, cho ông tiền. Rồi người ta thấy ông đi xin bao nhiêu năm trời mà gia cảnh vẫn nghèo túng, người ta mới hiểu ông không xin cho ông, ông đang đi làm phúc cho đời. Ông đã làm cái việc mà những người bình thường không phải ai cũng làm được. Lâu dần, đến bây giờ người ta chỉ còn thấy yêu ông, mến ông, phục ông.
Thế rồi, ngày ngày, ông cụ với chiếc áo kiểu blouse lại lóc cóc đạp xe, mang theo cuốn nhật ký Tấm lòng vàng (dùng để ghi tên những người đã đóng góp tiền của) và 1, 2 chậu cây cảnh nhỏ li ti, đặt trong giỏ xe. Những chậu cây này do ông ươm trồng để tặng cho những người có tấm lòng hảo tâm.

Ông Thái Văn Thành bên cuốn sổ Tấm lòng vàng.
Thi thoảng, ông qua chỗ bưu điện văn hóa thị trấn, rồi hỏi thăm, hỏi nom bảo người ta có phong bì cũ, giấy bỏ thì để lại cho ông. Với những chiếc phong bì cũ, ông lộn ngược phần trong bao ra ngoài, phần ngoài bao có chữ thì ông lộn vào trong. Như vậy, mỗi chiếc phong bì có thể dùng được đến 2 lần.
Ông dẫn chúng tôi vào căn buồng chất đầy báo chí, trước khi gặp chúng tôi, ông đang đọc một trong số những tờ báo đó. Cặp kính lão vẫn còn đặt trên chiếc bàn kê bên cạnh. Thấy một số tờ báo bị cắt ra từng mảnh nhỏ, tờ cũ, tờ mới xếp chồng lên nhau ngăn nắp, chúng tôi thắc mắc, ông nhanh nhảu đáp: “Đọc báo thấy người ta khổ quá, tui thương nên cắt ra, xếp lại để lúc nào có tiền mình giúp đỡ những người như thế”. Cũng từ việc làm này, ông đã giúp đỡ được bao nhiêu người khi họ khó khăn nhất. Có khi là hoàn cảnh một cụ già không nơi nương tựa, có khi là chị gái phải một mình nuôi mẹ tật nguyền và 2 em ăn học vì cha mất sớm...
Vì tuổi già nên ông không còn sung sức như hồi trẻ, bây giờ ông đặt mục tiêu mỗi ngày phải xin được 30.000 đồng. Bà con ngõ xóm bây giờ tin ông lắm, thế nên những khi có tiền họ gọi ông lại đưa. Ông kể: “Sáng nay vừa có 2 người gọi tôi đến cho tiền nhưng tôi khất để lần sau sẽ nhận. Vì tôi biết người ta có lòng nhưng hoàn cảnh chưa cho phép. Người ta vừa xây nhà xong, lại nuôi mấy đứa con ăn học nên ông khất. Không phải ai cho ông cũng lấy, ông phải xem điều kiện người ta như thế nào rồi ông mới lấy”.
Những người có tấm lòng hảo tâm, dù là 1.000, 2.000 đồng ông cũng lấy. Cũng có những người cho ông tiền triệu. Ông kể: “Có người đưa cho ông 3 triệu đồng, nhưng lại ghi trong sổ Tấm lòng vàng ủng hộ 2 triệu đồng. Ông hỏi lại: “Cô thử tôi hay sao mà lại làm thế?”. Cô gái đáp: “Con không thử ông, cả thiên hạ này thử ông rồi thì con cần gì phải làm thế nữa. Một triệu đồng dư, con để ông bồi bổ có sức khỏe, còn đi làm phúc cho đời chứ!”
Một lần nữa nhìn vào ánh mắt ông, tôi lại thấy ánh lửa ngùn ngụt như đốt cháy cả lòng người. Khi trở về, tôi vẫn còn ám ảnh mãi câu nói của ông khi tôi bảo ông sắm chiếc điện thoại để tiện liên lạc. Ông nói: “Tui sắp chết rồi còn dùng điện thoại làm gì nữa. Bây giờ sống được ngày nào thì tích đức ngày ấy thôi. Tui chỉ mong có thêm nhiều người làm việc thiện, nhà nhà làm việc thiện để giúp đỡ những người nghèo hơn mình. Có thế xã hội mới tốt lên được”.
PHẠM THÀNH SƠN