- Tôi có dư tiền và có ý định cho người khác vay tiền để lấy lãi. Vậy cho vay với lãi suất bao nhiêu là vi phạm pháp luật về việc cho vay nặng lãi?
- Lãi suất cho vay được quy định trong Bộ luật Dân sự 2015, tại khoản 1 Điều 468. Theo đó, pháp luật tôn trọng sự thỏa thuận của các bên về lãi suất giao dịch (hợp đồng) cho vay tài sản. Trong đó, lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản 1 Điều 468 (lãi suất không được vượt quá 20%/năm) thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực. Tức là bên cho vay sẽ không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ quyền lợi đối với phần lãi suất vượt quá quy định khi có tranh chấp xảy ra đối với hợp đồng cho vay.
Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 468 có quy định: Trong trường hợp có tranh chấp về lãi suất, dù có thỏa thuận trước về việc trả lãi nhưng không xác định rõ lãi suất, thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 tại thời điểm trả nợ.
Các tổ chức, cá nhân nếu thực hiện việc cho vay mà lãi suất quá cao sẽ bị xử phạt hành chính. Cụ thể, theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 11 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12-11-2013 quy định “Cho vay tiền có cầm cố tài sản, nhưng lãi suất cho vay vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm cho vay” sẽ bị phạt tiền từ 5 - 15 triệu đồng đối với cá nhân, và từ 10 - 30 triệu đồng đối với tổ chức.
Ngoài ra, những cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi này còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh trật tự trong thời hạn từ 3 - 6 tháng.
Đồng thời, Bộ luật Hình sự 2015 cũng có điều khoản quy định về tội cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự. Cụ thể, Điều 201 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay lãi suất gấp 5 lần mức lãi suất cao nhất quy định tại khoản 1 Điều 468 trong Bộ luật Dân sự; thu lợi bất chính từ 30 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng, hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tiền từ 50 - 200 triệu đồng, hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm.
Trường hợp thu lợi bất chính từ 100 triệu đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 200 triệu đồng đến 1 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Không những thế, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30 - 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 - 5 năm.