
Những năm đầu, sau khi đất nước Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, nhiều tác phẩm điện ảnh có nội dung tư tưởng sâu, có nghệ thuật thể hiện khá hoàn chỉnh đã ra đời, đưa tầm cỡ thành tựu điện ảnh Việt Nam lên một tầm cao vượt ra ngoài phạm vi quốc gia.
Điện ảnh Việt Nam cho đến thời điểm này đã được ghi nhận, biểu dương trong Từ điển Bách khoa toàn thư Điện ảnh Xôviết (*) xuất bản năm 1986 với một chương mục lớn về Điện ảnh Việt Nam.
Trong chương mục đó trân trọng ghi nhận: Từ ngay sau Cách mạng Tháng Tám 1945 Việt Nam đã có những tác phẩm điện ảnh đầu tiên như Trận Mộc Hóa (1948), Chiến thắng Tây Bắc (1952), Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954)... Năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Doanh nghiệp Quốc gia Chiếu bóng và chụp ảnh Việt Nam; năm 1956 Việt Nam đã có hãng phim và từ 1959 đến 1962 Việt Nam đã quốc hữu hóa hệ thống rạp chiếu bóng.
Trong nửa sau của thập kỷ 50, Việt Nam đã sản xuất được một loạt phim tài liệu mà phim có giá trị lớn nhất là Nước về Bắc Hưng Hải, phim này năm 1959 đã được công chiếu tại Mátxcơva. Năm 1959, Việt Nam đã sản xuất được phim truyện nhựa đầu tiên Chung một dòng sông do Hồng Nghi và Hiếu Dân đạo diễn.
Năm 1961, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cho thành lập xưởng phim Giải phóng và bước qua năm 1962, Hãng phim Quân Giải phóng cũng đã ra đời. Cho đến năm 1970, hai hãng phim này đã sản xuất được khoảng 60 phim phóng sự, tài liệu về công cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược Mỹ để giải phóng dân tộc.
Cuộc chiến đấu của nhân dân cả hai miền Nam Bắc chống quân xâm lược Mỹ, chiến công của các anh hùng, chiến sĩ trong cuộc chiến đấu ấy đã là nguồn cảm hứng sáng tạo mạnh mẽ để các nghệ sĩ điện ảnh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xây dựng nên nhiều tác phẩm điện ảnh mới. Đó là các phim nghệ thuật như: Nổi gió (1966) của hai đạo diễn Huy Thành và Lê Bá Huyền; Rừng O Thắm (1967) của đạo diễn Hải Ninh; các phim tài liệu như Trận địa mặt đường (1970), Lũy thép Vĩnh Linh (1971) v.v...
Trong các phim được sản xuất thời kỳ từ những năm 1970 đến những năm đầu của thập niên 80 có thể kể tới các phim của đạo diễn Hải Ninh như: Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Em bé Hà Nội, Mối tình đầu, Đất mẹ; phim Sao Tháng Tám của đạo diễn Trần Đắc; cùng các phim của đạo diễn Hồng Sến như: Vùng gió xoáy, Mùa gió chướng, Cánh đồng hoang (phim đoạt giải Vàng tại Liên hoan Phim quốc tế Mátxcơva - 1981)… Phim Việt Nam thời gian này cũng nhằm củng cố ý hướng chống chủ nghĩa đế quốc mà các nền điện ảnh đấu tranh của nhiều nước trên thế giới vẫn hướng tới trong những thập niên 60-70.
Đây cũng là thời kỳ mà quan hệ sáng tạo của những người làm điện ảnh Liên Xô và Việt Nam được thắt chặt nhất; sự trao đổi phim ảnh và hoạt động điện ảnh nói chung giữa hai nước ngày một mở rộng…

Cùng với từ mục Điện ảnh Việt Nam, Từ điển Bách khoa toàn thư Điện ảnh Xôviết đã giới thiệu 5 bức ảnh trích từ phim Chung một dòng sông (1959) của các đạo diễn Hồng Nghi và Hiếu Dân; từ phim Người chiến sĩ trẻ (1964) của các đạo diễn Hải Ninh và Nguyễn Đức Hinh; từ phim Vĩ tuyến 17 ngày và đêm (1972) của đạo diễn Hải Ninh; từ phim Nguyễn Văn Trỗi (1966) của đạo diễn Bùi Đình Hạc và từ phim Cánh đồng hoang (1980) của đạo diễn Hồng Sến (ảnh bên)...
Nhân kỷ niệm 90 năm Cách mạng Tháng Mười, nhắc lại sự kiện này như để góp thêm một bông hoa đẹp trong rừng hoa hữu nghị giữa Việt Nam với Liên Xô, với nước Nga và các nước mà trước đây ở trong Liên bang Xôviết. Bông hoa đẹp này sắc rất thắm và hương ngát thơm, bởi vì nó được nở ra từ cây cành; từ cội rễ của trí tuệ, của sáng tạo và của học thuật.
Xin cảm ơn Nhà xuất bản Bách khoa toàn thư Xôviết; xin cảm ơn Bộ biên tập của nhà xuất bản mà đứng đầu là Tổng biên tập X.I. Iútkêvích, xin cảm ơn học giả K.E. Radơlôgốp - tác giả từ mục Điện ảnh Việt Nam.
(*) Chủ biên: X.I. Iútkêvích. NXB. Bách khoa toàn thư Xôviết.
PGS-TS TRẦN TRỌNG ĐĂNG ĐÀN