Điêu khắc tượng đài một anh hùng

Khái niệm biểu tượng có hai lớp nghĩa: Một, là những ký hiệu có trong lịch sử, theo thời gian được bồi đắp nhiều lớp phù sa văn hóa, lắng đọng, kết thành hình tượng với tri thức văn hóa sâu rộng, có tính cộng đồng cao, trở thành “căn cước văn hóa” của mỗi dân tộc. Hai, tập trung khái quát cao độ những ý nghĩa lịch sử - xã hội, nên nhìn vào biểu tượng sẽ thấy nội dung bản chất thời đại.

1. Soi cách hiểu này vào trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội Nhân dân, 2025) có thể thấy tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ, một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về thẩm mỹ. Ngay tên gọi cũng mang ý nghĩa biểu tượng: “đất lửa Tây Ninh” - vùng đất ác liệt, nơi đối đầu trực diện giữa ta và địch. “Tiếng chim rừng” gợi về cuộc sống bình yên, về hòa bình. Tổng hòa lại, bật ra một ý chung nhất: tình yêu sự sống nở hoa trên lửa đỏ chiến tranh.

CN4 A.jpg
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh

Một yêu cầu cơ bản của nghệ thuật điêu khắc tượng đài là tìm ra một không gian tương xứng, không chỉ để làm nổi lên hình tượng, mà còn khơi gợi ra sự liên tưởng thẩm mỹ ở người thưởng thức. Trong trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh, một trong hai hình ảnh trung tâm là người Anh hùng lực lượng vũ trang Tô Quyền được “nhà điêu khắc” Châu La Việt đặt vào 2 mảng không gian hôm qua - lịch sử dựng nước, giữ nước và hôm nay tiếp bước, kế thừa truyền thống. Người anh hùng ấy ra đi từ làng Xuân Cầu (xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên), một vùng đất thiêng giàu bản sắc được “điêu khắc” bằng ngôn ngữ của thơ: “Thả gầu múc giếng khơi trong mát/ Uống ngụm nước thấm sâu tâm hồn/ Đi khắp bốn phương uống trăm ngọn nước/ Không nơi nào bằng nước giếng quê hương”...

Tiếp đó là những hình ảnh của hồi ức người lính Tô Quyền nơi chiến trường, nhớ về người vợ - bà Đặng Thị Cam chốn hậu phương xa xôi với bao vất vả: “Như bao vợ của những người ra trận/ Một tay bà chăm sóc đàn con/ Đứa lớn đứa bé con trai con gái/ Tuổi ăn tuổi ngủ tuổi cắp sách đến trường/… Thằng anh lớn lên, nhường tấm áo cho em/ Con chị học xong, sách cho em học tiếp…”.

Và như một bản lề khép mở thế giới hôm qua và hiện tại hôm nay, nhân vật Tô Quyền đã được tác giả kiến tạo theo nguyên tắc trữ tình hóa với những liên tưởng, tưởng tượng của người chồng về ngôi nhà, vợ con: “Ôi nếp nhà giản dị chốn làng quê/ Đêm trăng thanh kê chõng tre hóng mát/ Người mẹ nhìn lũ con múa hát/ Nuốt nước mắt vào lòng nhớ chồng ở nơi xa”.

Với người lính nơi chiến trường sống chết, có gì thiêng liêng hơn mái nhà của mình; có gì yêu thương hơn vợ con mình. Chính trong sự nhớ nhung, tình người đó đã làm nổi bật lên chất lý tưởng, chất anh hùng của những con người đã hy sinh tất cả vì độc lập, thống nhất của Tổ quốc.

Không gian làng quê khép lại, không gian chiến tranh mở ra, được đặc tả cận cảnh, rắn rỏi, gân guốc, mạnh mẽ. Là lúc “chém vè tránh giặc”, khi “đội hầm lên nổ súng tiến công”. Trong hoàn cảnh hết sức khó khăn đó, người chiến sĩ cách mạng chiến đấu vì dân, bảo vệ dân và được dân che chở: “Các má gọi ông “thằng Tư Tô Lâm” (bí danh của đồng chí Tô Quyền)… Người anh hùng hiện lên với tất cả những phẩm chất người lính, ý chí vượt qua thời điểm khó khăn nhất: “Gian xơn xi ty 53 ngày đêm/ Súng hết đạn, người cầm hơi chút cháo/ Chất độc hóa học, máy bay và phi pháo/… Không ai tin được một ngày mười trận bom/ B52, bom phát quang, chất độc/ Rừng cây xanh úa vàng tận gốc…”. Nghệ thuật tương phản, đối lập được khai thác triệt để: người lính an ninh trong hoàn cảnh khó khăn nhất (súng hết đạn, cầm hơi chút cháo), “vẫn kiên gan quyết đánh trả đến cùng” kẻ thù hung bạo nhất (một ngày mười trận bom, chất độc hóa học, máy bay, phi pháo)…

2. Một nguyên tắc kiến tạo tượng đài, theo mỹ học tạo hình hiện đại phải vừa là nơi gặp gỡ, tương tác giữa ánh hồi quang từ quá khứ và những ánh xạ của cuộc sống đương đại, để tạo nên dải quang phổ lung linh hấp dẫn có độ tán sắc ánh sáng văn hóa rộng. Nếu lịch sử mang “hồn núi sông” là ánh hồi quang quá khứ, thì nghệ sĩ Tô Lan Phương (NSND Tô Lan Phương) là sự ánh xạ của hôm nay, tràn trề sức trẻ và tình yêu: “Tuổi 20 như tia nắng mặt trời/ Những gương mặt sáng ngời lý tưởng/ Chọn sân khấu nơi miền Nam lửa đạn/ Người chiến sĩ và khúc hát trên môi”.

CN4 B.jpg
NSND Tô Lan Phương những năm tháng ở chiến trường Tây Ninh

Như bao thanh niên khác, theo lời Tổ quốc gọi, Tô Lan Phương đã lên đường vào Nam chiến đấu. Nơi đến là vùng “đất lửa Tây Ninh” nóng bỏng, ác liệt, nên người nữ nghệ sĩ trẻ ấy cũng đồng thời phải là người lính trực tiếp cầm súng. Và trong khó khăn, truyền thống cách mạng quê hương trở thành điểm tựa vững vàng: “Em đã mang cây đào thắm đỏ ấy/ Những tháng ngày vượt nắng lửa Trường Sơn/ Em đã mang cây đào như lửa cháy/ Trong tim mình những năm tháng chiến trường…”. “Cây đào như lửa cháy” một biểu trưng ý nghĩa về sự kế thừa, tiếp nối giữa hai thế hệ chống Pháp và chống Mỹ. Còn là biểu tượng của niềm tin thời đại: chính nghĩa yêu nước sẽ chiến thắng phi nghĩa xâm lược!

Cùng điểm xuất phát làng quê Xuân Cầu; điểm gặp gỡ là chiến trường, hai hình tượng nhân vật cùng tương hỗ, khúc xạ vào nhau, để tôn lên, làm rực rỡ thêm biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: “Cũng những ngày ấy có một người Xuân Cầu/ Ông đã tới với chiến trường rất sớm/ Nơi ông đến đất Tây Ninh nóng bỏng/ Ông sẽ yêu như chính quê hương mình…”. Hai không gian nghệ thuật trữ tình (vùng quê Xuân Cầu và vùng đất Tây Ninh) đồng hiện theo sự quy chiếu của hai cái tôi tâm trạng để cùng tỏa ra thứ ánh sáng nhân văn về tình yêu cội nguồn, tình đồng hương, cao hơn cả là tình yêu nước, tình đồng chí.

Hai người lính, hai thế hệ ngẫu nhiên gặp nhau trong không gian thật đặc biệt: “Chú với cháu cùng quê hương Xuân Cầu/ Vườn nhà cháu ngày xưa chú thường sang hái quả/ Chú cũng họ Tô, là đội trưởng thiếu nhi từ nhỏ/ Đi rải truyền đơn, đi canh gác cho ông cháu họp hành”. Giữa họ, tình anh em chú cháu họ hàng, tình đồng hương đã hòa vào tình yêu nước để tạo nên sức mạnh của lòng quả cảm đuổi giặc thù.

3. Hài hòa với cảnh quan chung, tượng đài còn phải hài hòa với lòng người. Tất cả cùng nâng đỡ nhau vì cái đẹp chung của nghệ thuật hướng về cuộc sống. Trở về Tây Ninh, giữa sắc xanh của trời, của cây, của niềm tự hào yêu thương, nhà thơ “điêu khắc” những tượng đài người anh hùng trong tâm tưởng của riêng mình, cũng là của độc giả: “Tên họ mãi còn với đất nước quê hương/ Tên họ trong lòng nhân dân yêu dấu”. Khắc ghi để sáng mãi chân lý lịch sử, để trao truyền đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Đó cũng là nguyên lý của đổi mới, phát triển: kế thừa, phát huy, nâng cao các giá trị văn hóa dân tộc.

Tin cùng chuyên mục