Hái chè thuê

Hái chè thuê

Trời đang nắng lại ào ào mưa. Nắng mưa là việc của trời, còn đối với những người hái chè thuê, mưa chỉ làm những tấm lưng trĩu nặng thạ chè bớt thấm đẫm mồ hôi. Bao câu chuyện thanh tao bên ấm trà, nào đã mấy ai biết đến nỗi niềm của những người phụ nữ, với những bàn tay suốt đời lấm lem nhựa chè.

  • Trời mưa... thì mặc trời mưa

Lần lựa mãi, chúng tôi lại chọn đúng cái ngày thời tiết xấu để đầu quân vào đội hái chè thuê. Cùng đi vào một gia đình ở xóm 6 Tân Linh (Đại Từ, Thái Nguyên) với chúng tôi còn có 6 phụ nữ khác, mà 6 cô gái thì đúng hơn.

Sáng hôm ấy, để kịp có mặt tại “chợ lao động” cách trung tâm TP Thái Nguyên hơn 20km, trời vừa sáng tôi đã nai nịt gọn gàng, sẵn sàng lên đường. Trong khi đó, cô bạn đồng nghiệp vẫn diện quần bò xịn, giày cao gót, môi son sành điệu. Tôi phải kiên quyết ra tay sửa sang, làm cho nàng bớt đi vẻ yểu điệu của con gái Hà thành gốc, nếu không ai mà dám thuê chúng tôi kia chứ.

Hái chè thuê ảnh 1

Trời mưa thì mặc trời mưa, hái chè cứ phải đến trưa mới dừng.

“Ôi, sao chè lại có thể đẹp thế!” - cô bạn đồng nghiệp thốt lên. Quả thật là đẹp, chè cứ hàng nối hàng, từ chân đến đỉnh đồi cao, mơn mởn búp. Chẳng phải đi chơi mà có thời gian để thả hồn trong không khí tĩnh lặng sương mai buổi sớm của vùng quê nổi tiếng về chè này, chúng tôi đeo thạ (đồ dùng đan bằng tre nứa chuyên đựng chè tươi của đồng bào địa phương) lên lưng và bắt đầu hái những búp chè đầu tiên, ngay bên cạnh chị Hảo - chủ nhà.

Cũng may, yêu cầu đặt ra chỉ là hái cho thật sạch búp, không quan trọng ngắn dài, nên làm thuê một mùa như chúng tôi nhập cuộc không quá vất vả. Sáu cô gái đi cùng, khuôn mặt đều còn rất trẻ dưới vành nón lá và chiếc khăn trùm đầu, với những bàn tay nhanh thoăn thoắt trên luống chè, thì chắc hẳn họ phải là thợ từ lâu rồi.

Tôi kiếm cớ lại gần bắt chuyện với cô bé có đôi mắt đen, hàng mi dày và tưởng mình nghe nhầm khi em nói mới 14 tuổi mà đã có “thâm niên” 5 năm hái chè. “Em học hái chè từ năm học lớp 2 cơ” - Thủy kể. “Những lúc ở nhà vãn việc, bố mẹ cho em đi làm thuê để lấy tiền mua sách vở, quần áo cho năm học mới. Một ngày em chỉ hái được khoảng 20 kg thôi. Mấy chị đây đều là người trong xã, nhưng nhà ít việc nên rủ nhau đi hái chè thuê quanh làng”.

Câu chuyện đang dở dang thì cơn mưa từ đâu bỗng trút xuống ào ào. Chị Hảo bảo tôi và cô bạn trú tạm vào gốc cây mít, rồi tong tả chạy về nhà. Thấy điệu bộ lúng túng của tôi, mấy chị em cười bảo: “Đã lên đồi chè thì mưa hay nắng đến đâu cũng phải chấp nhận, bỏ dở thì lỡ việc của chủ nhà”. Nhìn sang mấy quả đồi bên cạnh cũng chẳng thấy ai trú mưa (tôi thoáng rùng mình khi nhớ mấy hôm trước đọc báo thấy tin sét đánh người đang làm việc ngoài đồng).

Chị Hảo trở lại đưa cho tôi một chiếc áo và một miếng nylon cũ, rồi bảo tôi cách quây mảnh nylon từ thắt lưng trở xuống để không bị ướt khi di chuyển qua các luống chè. Lúc này thì quần áo tôi cũng đã ướt đẫm, còn chân tay thì ngứa ran vì dị ứng.

Chỉ trong một buổi sáng mà hết nắng lại mưa đến mấy lần. Nhìn sang cô bạn đồng nghiệp khó nhọc đeo thạ chè đứng thở, tôi liếc nhìn đồng hồ, kim ngắn mới chỉ đến số 11. Lành – cô bé nhiều tuổi nhất trong mấy chị em - vừa tròn 22, vẻ thông cảm bảo tôi: “Sớm nhất là 12 giờ mới nghỉ cơ chị ạ, có khi hái thông tầm đến chiều luôn. Hôm nay mưa nên còn mát, những hôm nắng chắc chị không trụ được đến giờ này đâu”. Rồi cũng đến lúc nghỉ trưa, chúng tôi phải nói thật với chị Hảo để trở về với mục đích chính trong chuyến đi của mình.

  • Nỗi niềm ai tỏ

Nghe tôi hỏi “mùa hè trẻ em ở đây có tổ chức vui chơi gì không?”. Thủy ngơ ngác cứ như nghe thấy điều gì xa lạ lắm. Em xòe hai bàn tay với ngón cái và ngón trỏ (hai ngón chính dùng để hái chè) nứt nẻ, đen nhẻm, bảo: “Có lúc nó nứt cả ngón cơ, mà nứt rất sâu, xót lắm”. Tôi bỗng rùng mình như cảm thấy những búp chè mình vừa hái đầy gai.

Chợt nhớ lại lúc sáng sớm nay khi nhìn thấy ánh mắt buồn bã của 5 bé gái nhẫn nại đứng chờ việc đầu chợ. Cả 5 em đều ở xã Mỹ Yên (cách Tân Linh hơn 10km) đều ở tuổi 12-13. Một em có vẻ già dặn nhất trong đám đã kể “bọn em đi ô tô khách đến đây, tìm được việc thì ở luôn nhà chủ, dăm bữa nửa tháng mới về nhà một lần. Nghỉ ngơi mấy hôm lại đi. Mùa này nhà nông ít việc nên trong xã nhiều người đến đây làm thuê lắm”. Khi hỏi chuyện học hành các em đều im lặng, đưa mắt nhìn ra ngoài xa.

Hái chè thuê ảnh 2

Bữa cơm trưa đạm bạc của những người hái chè thuê.

Công việc nhiều, người ít, đối với người đi hái chè thuê tưởng chẳng còn mong gì hơn. 72 tuổi, cụ Tân, người làm công cho nhà chị Hường ở xóm Hồng Thái 2, Tân Cương khoe: “Tôi vừa được tăng lương từ 16 lên 17 ngàn một ngày đấy cô ạ”. Dù tuổi cao, 5 năm gần đây cụ vẫn đi làm đều.

“Kỳ cựu” trong nghề hái chè ở đất này phải kể đến chị Hậu ở xóm Gò Pháo. Căn nhà nhỏ chưa đầy 20 m2 của chị đơn sơ đến nao lòng. Mấy chiếc bao dứa căng lên trần nhà vừa để che mưa, vừa để chống nắng. Ít đậu phộng khô lăn lóc bên nắm đậu đen góc nhà. Chiếc tivi đen trắng phủ đầy bụi.

“Tôi đã đi hái chè thuê gần hai chục năm nay” - chị Hậu ngậm ngùi. Chị cho biết thường mỗi tháng chỉ có việc làm gần 20 ngày, nên thu nhập khoảng ba trăm ngàn đồng và mỗi dịp lễ Tết có thêm chút quà. “Có lúc nào chị thấy chán nản muốn tìm nghề khác không?” – tôi hỏi. “Nhiều lúc chán lắm chứ, nhưng cứ như cái số nó vận vào thân, không khác được. Ở đất này đứa trẻ lên 8 đã phải hái chè, cụ già hơn 80 cũng vẫn còng lưng ở bãi chè.

Chị em cùng làm nhiều lúc hỏi nhau: không lẽ ngày này qua ngày khác chỉ làm bạn với nắng mưa trên bãi chè thôi sao? Nhưng rồi cũng đành cam chịu, chỉ buồn là tiền công ít ỏi, lúc khỏe đã đành còn lo lúc ốm đau nữa chứ, nên vẫn phải cố dành dụm tiền thuốc men. Mình tuổi cao rồi, tìm việc khác cũng đâu phải dễ. Thôi thì đến đâu hay đến đấy vậy thôi…”. Nói rồi, chị tất tả khoác vội chiếc áo bảo hộ đã sờn rời nhà giữa chang chang nắng.

Hỏi về nguyên nhân khan hiếm lao động, anh Việt ở xóm 13 (xã Tân Linh) nhà có tới 23 sào chè (khoảng 8.000m2) bảo: “Hái chè là công việc nặng nhọc, tập trung tinh thần cao, lại vận động tay chân liên tục từ sớm đến tối. Đấy là chưa kể phải làm việc trong môi trường ô nhiễm do thuốc trừ sâu, đôi khi bị ong đốt, rắn cắn… có người phải đi cấp cứu rồi đấy. Thế nên có cơ hội đi xuất khẩu hoặc xuống thành phố kiếm việc là người ta đi ngay.

Vất vả, nhưng công hái chè lúc cao nhất cũng không quá 1.500 đồng/kg, bởi vì công thu hoạch đã chiếm 1/3 giá bán, khi một cân chè khô chỉ bán được 17.000 đồng, trong khi công hái tính ra đã là 5.000 đồng, còn tiền phân bón, công chăm sóc, củi lửa, xao sấy…”.

Chiều muộn, lưng áo đẫm mồ hôi, chị Hậu lại trở về căn nhà cô quạnh. Mấy bé gái làm thuê nơi đất khách cụm lại với nhau nghĩ đến cảnh đầm ấm ở nhà. Thủy vừa đi vừa xòe hai bàn tay ra ngắm như đã thành thói quen sau mỗi ngày làm việc, không biết em đang nghĩ gì.

Trở về thành phố, chúng tôi cứ bâng khuâng, chẳng còn cảm thấy những mệt mỏi của bản thân mình nữa. Bao đời nay chè vẫn mướt xanh, dường như số phận của cây chè và người trồng chè chẳng mấy đổi thay. Thành phố về đêm lung linh biển hiệu, dăng dăng hấp dẫn như mời gọi của những quán trà.

Mấy ai biết được đằng sau hương vị ngạt ngào, ngây ngất của bao loại trà kia có những giọt mồ hôi chát mặn của những người phụ nữ bé nhỏ chịu thương chịu khó, tần tảo mưu sinh, đời này nối tiếp đời kia. Có ai hình dung ra những cánh trà rời những đồi trà trên những tấm lưng nhỏ bé, trĩu nặng thạ chè kia không?  

Bài và ảnh: NGUYÊN HÀ

Tin cùng chuyên mục