
Bài 1: Lời ru buồn nơi đảo xa…
“Má ơi đừng gả con xa. Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu?”. Lời ca ai oán ấy đã phần nào lột tả nỗi buồn tủi của không ít cô dâu Việt lấy chồng Đài Loan.
Thân phận “đẻ thuê”

Một cô dâu Việt làm việc ở Nhà máy sản xuất linh kiện ô tô Hán Quang. Ảnh: V.B.
Trong buổi gặp gỡ đồng hương người Việt ở TP Bản Kiều, huyện Đài Bắc, chúng tôi cảm nhận được không ít nỗi buồn trên khuôn mặt trẻ đẹp của nhiều cô dâu ở đây.
Câu chuyện của cô gái trẻ quê Đà Lạt tên Đ. T. K. Hòa mà tôi được nghe kể khá thương tâm. Khuôn mặt trắng hồng của Hòa thoát lên vẻ thánh thiện nhưng đôi mắt thì u buồn, vời vợi nỗi đau bị chà đạp về thể xác lẫn tinh thần suốt nhiều năm làm vợ. Mắt ngấn lệ, Hòa kể: “Gia đình họ cưới em về để “đẻ thuê”. Em chưa bao giờ được hưởng giây phút làm vợ đúng nghĩa. Họ coi em tệ hơn oshin”.
Đổi lấy đời con gái với cái giá 4 triệu đồng (do môi giới đưa sau đám cưới), Hòa theo chồng về vùng quê Chương Hóa thuộc huyện Đài Bắc và chẳng thể nào ngờ đấy là cột mốc tủi hổ nhất sau những ngày giã từ tuổi học sinh (Hòa đã học đến lớp 12).
Chồng cô là dạng công tử bột, chỉ biết ăn chơi nên phụ thuộc và nghe lời mẹ răm rắp. Hắn không coi Hòa là vợ nên không hề bảo vệ mỗi khi Hòa bị mẹ chồng o ép, đánh đập. “Tao tốn tiền cưới mày về nên mày phải làm việc bù lại” - bà mẹ chồng luôn nhắc nhở vai trò “làm thuê” của Hòa. Nhà chồng Hòa khá giàu, có một xưởng sản xuất nhựa. Hòa phải làm việc từ 5g sáng đến 22g tối mỗi ngày. Khi Hòa sinh con xong phải đi làm ngay, không được nghỉ hậu sản.
Mục đích cưới con dâu ngoại về để có cháu nên khi con trai của Hòa được 2 tuổi, cả nhà chồng rắp tâm đuổi cô về Việt Nam. Vì nhớ nhà nên khi chồng bảo đã mua vé máy bay cho về Việt Nam chơi, Hòa lập tức mắc bẫy của họ. Suốt gần 3 năm làm dâu, khi quay về Việt Nam, nhà chồng chỉ cho cô 2.000 Đài tệ (tương đương 1 triệu đồng Việt Nam) và 8 USD cầm đi đường.
Về đến Việt Nam một thời gian ngắn, Hòa bất ngờ khi nhận được giấy báo từ phía Đài Loan cho biết người chồng đã đưa đơn ly dị. Hòa kể: “Họ vu khống em tự bỏ trốn về Việt Nam, ăn cắp nhiều đồ đạc quý giá của nhà chồng…”. Quá uất ức, Hòa nhờ một người bạn cũng là cô dâu ở Đài giúp đỡ, liên hệ với Hội đồng hương Việt Nam ở Bản Kiều.
Nhờ sự giúp đỡ của hội, Hòa đã quay lại Đài Loan để kiện nhà chồng, đòi quyền được gặp con trai của mình. Hiện Hòa đang được Hội đồng hương Việt Nam giúp đỡ, tạo việc làm, hướng dẫn cô về mặt pháp lý để đòi lại quyền lợi chính đáng của mình.
Trường hợp của Diễm ở Sóc Trăng cũng đáng thương không kém. Sau khi sinh được cô con gái 7 tuổi, gia đình chồng kiếm chuyện và đuổi Diễm ra khỏi nhà, không cho thăm con. Diễm cầu cứu đến cảnh sát thì gia đình chồng vu khống, nói xấu Diễm đủ điều.
Diễm nói: “Em chỉ có một mình, thân cô thế cô làm sao đấu khẩu với họ, hơn nữa luật pháp thường nghiêng về hướng bảo vệ người bản địa hơn. Bây giờ em phải chịu cảnh bị tước đoạt quyền thăm nuôi con vì kinh tế không ổn định, phải thuê nhà ở…”.
Bến đục mù sương…
Nhiều đêm ôm gối nằm ngủ cạnh người chồng già, tàn tật, không có tình yêu, nhiều chị em đã thầm khóc, hờn trách số phận hẩm hiu. Chị T.T.N., quê ở Cần Thơ, ví von suốt 8 năm làm vợ nơi xứ người chị phải sống cận kề với một “bóng ma”. Hạnh phúc mà chị chờ đợi chỉ giống như “sương đọng lá mùng”.
Hồng, quê ở Cà Mau, vì cha mẹ mất sớm, em đông mà nhà lại nghèo nên cô hy sinh đi lấy chồng ngoại, hy vọng có chút tiền gửi về giúp các em. Nào ngờ lấy phải người chồng ở vùng quê cũng nghèo khó như mình. Để có tiền sống qua ngày và nuôi ông chồng lười biếng, phục dịch cả gia đình chồng, Hồng phải làm việc quần quật suốt ngày còn cực hơn con ở. Đến khi mang thai cũng không được nghỉ ngơi, bồi dưỡng nên phải sinh non.
Do làm việc quá sức, Hồng bị đau đầu thường xuyên, cuối cùng bị đứt mạch máu não phải phẫu thuật, giờ bị liệt toàn thân trái. Từ khi xuất viện phải ngồi xe lăn nhưng Hồng vẫn phải làm mọi việc như khi lành lặn, từ nấu ăn, giặt giũ, chăm con… Nỗi tủi nhục và cay đắng càng tăng thêm khi ông chồng chửi bới vì vợ không còn làm ra tiền.
Hồng tâm sự: Đã không ít lần em quyết định chọn cái chết để giải thoát nhưng nghĩ đến đưa con còn nhỏ, những đứa em nheo nhóc ở quê vậy là đành phải gắng gượng chịu đựng”.
Chị Nguyễn Thị Thùy Mai, Chủ tịch Hội đồng hương Việt Nam chua xót nói: “Nhiều chị em lâm vào những hoàn cảnh đáng thương lắm. Họ chẳng biết cầu cứu ai ngoài Hội đồng hương Việt Nam khi bị gia đình chồng hắt hủi, đuổi ra khỏi nhà, không chịu làm giấy chứng minh…”. |
Cái khổ lớn hơn hay còn gọi là cái nghiệp ngoài ý muốn là các cô gái trẻ vừa qua tuổi trăng rằm vài năm (mười tám đôi mươi) đã bị đẩy đi lấy chồng xa và phải canh cánh kiếm tiền cho cha mẹ nghèo ở vùng quê. Mấy cha mẹ nào nào hiểu rõ ở hòn đảo xa xối ấy con mình sống ra sao, vui buồn thế nào với người chồng chỉ quen mặt có vài ngày.
Nhớ lại những buổi ra mắt chú rể Đài tập thể được tổ chức ở một nhà hàng lớn thuộc quận 5, TPHCM, Hương nói: “Những ông chồng tương lai làm nghề gì, kinh tế ra sao, hoàn cảnh gia đình thế nào... sang đây chúng em mới biết rõ. Sự thật khác hẳn với những gì bọn môi giới tô vẽ, phóng đại lên”.
Thậm chí có cô khi ở Việt Nam làm đám cưới với người anh lành lặn nhưng sang đến nơi lại phải ở với người em tàn tật, không có khả năng sinh con. Họ cưới vợ cho con trai tật nguyền cốt chỉ để có người làm oshin, chăm sóc con thay họ.
Chị Đặng Thị Mỹ Nga kể về nỗi khổ bị cha mẹ chồng cấm không cho chị dạy tiếng Việt cho con của mình. Thế nhưng, để con không quên quê ngoại, đêm đêm chị vẫn ru con, dạy con bằng tiếng mẹ đẻ của mình. Dần dà hai đứa con của chị cũng biết nói tiếng Việt và mỗi khi theo mẹ về quê ngoại đã biết nói chuyện với ông bà ngoại .
Bài 2: Sa chân
Những ngày sống ở Đài Loan, chứng kiến những mảnh đời của các cô dâu nghèo trôi dạt nơi xứ người, chúng tôi nhận thấy cái giá hoán đổi hôn nhân bằng đồng tiền thật đắng cay, chua xót. Có không ít cô đã rơi vào con đường mại dâm đầy tủi nhục.
Lỡ bước sa chân
Đêm giữa tháng 11. Không khí ở TP Đài Bắc thuộc lãnh thổ Đài Loan bắt đầu se lạnh. Từng luồng gió mang hơi lạnh từ biển ùa vào kèm những cơn mưa rả rích khiến những ai chưa quen khí hậu của xứ đảo phải rùng mình. Sau bữa ăn tối cùng một số chủ doanh nghiệp ở lãnh thổ Đài Loan, chúng tôi nhận được lời mời: “Đi hát karaoke ở quán cô dâu Việt nha?!”.

Một quán ăn Việt ở Đài Loan - nơi thu hút đông người Việt đến ăn uống
Sau cái gật đầu, chúng tôi theo chân những ông chủ Đài rủng rỉnh tiền tìm đến một quán karaoke không có bảng hiệu nằm khuất sâu trong con hẻm nhỏ thuộc địa bàn Bình Chấn, quận Trung Lịch - TP Đào Viên.
Nhận được cú điện thoại báo trước của khách quen, bà chủ quán người Việt, độ tuổi vào khoảng U.40 có dáng vẻ xồ xề tên P., quê miền Tây ra tận ngoài đại lộ đón khách.
Thấy những gương mặt lạ đi cùng nhưng bà ta cũng không tỏ vẻ nghi ngờ gì. Trong vai những người Thái Lan đến Đài Loan du lịch, chúng tôi được tận mắt chứng kiến thế giới về đêm đầy tai tiếng của các cô dâu Việt bỏ chồng, trốn chồng đi làm thêm.
Sau khi mở cánh cửa quán bằng thẻ điện từ, bà chủ quán dẫn chúng tôi lên lầu một, vào phòng hát karaoke khá rộng. Ít phút sau khi nhạc nổi lên, dưới ánh đèn mờ ảo, một đoàn những cô gái Việt ăn mặc hở hang ùa ra. Chẳng chút ngượng ngùng, họ sà vào lòng khách, bắt đầu cuộc vui.
Bia đổ ra, nhạc quay cuồng. Thoát khỏi hình ảnh những cô gái hiền thục, thơ ngây đến từ vùng sông nước miền Tây, họ bắt đầu giở đủ chiêu mời mọc, chiều chuộng khách để có tiền bo cao. Nhìn các cô uốn éo, nhảy disco một cách sành điệu, trổ tài “kích hoạt” khách hòa nhịp vào cuộc chơi cuồng nhiệt, tôi thấy nhói lòng cho thân phận “bèo dạt mây trôi” nơi xứ người của họ. Một người bạn người Hoa gốc Việt đi cùng nói nhỏ: “Chỉ cần nhét vào ngực 1.000 -2.000 Đài tệ (tương đương 1 triệu đồng Việt Nam) là có thể dễ dàng đi over night - qua đêm - với các cô”.
Mặn đắng những ước vọng đổi đời
Dù đã nghe rất nhiều câu chuyện không hay về những cô dâu Việt đi làm thêm vào buổi tối nhưng tôi không thể tin vào những gì đang chứng kiến. Trong bóng đêm mờ ảo này, mỗi cô đều có một hoàn cảnh, một nỗi niềm ẩn chứa tâm sự khác nhau. Lý do thì rất nhiều, khách quan lẫn chủ quan đều có. Soi rọi vào tận cùng số phận của từng cô thì sự đáng thương cũng có mà sự đáng trách cũng nhiều nhưng hầu hết đều bắt nguồn từ những cuộc hôn nhân hoán đổi bằng tiền mà thiếu tình yêu.
Ngoài lý do cần tiền để gửi về cho gia đình, thì mỗi cô đều có hoàn cảnh riêng khiến phải bước vào lối rẽ tủi nhục này. Cô thì bị nhà chồng hắt hủi, xem thường, thậm chí đuổi đi. Cô thì cảm thấy cô đơn, hiu quạnh nơi xứ người vì không tìm được tiếng nói chung với người chồng đáng tuổi cha, chú. Cô thì gặm nhấm nỗi đau bị chồng ruồng bỏ, bắt mất con…
Chẳng ai giống ai nhưng tận sâu đáy lòng của mỗi nàng “bướm đêm” là sự chán chường, bất cần đời, chấp nhận kiếp sống buông thả. H., quê ở Cần Thơ, một trong số những cô “tiếp khách” tại quán karaoke hôm ấy, bộc bạch: “Mọi người nhìn thấy chúng em làm việc ở quán karaoke đều đánh giá, nhận xét thế này thế nọ. Nhưng có ai hiểu vì sao chúng em phải chọn con đường nhơ nhớp này đâu.
Lấy chồng Đài cứ tưởng sẽ sung sướng, nào ngờ sang đây bị đối xử nhục hơn con ở. Họ bắt em phục dịch cả nhà họ nhưng một đồng cũng không cho. Em muốn xài cái gì cũng không được phép, kể cả cha mẹ nghèo đang bị ốm đau ở quê nhà cũng không có lấy một xu để gửi về giúp…”. Và H. đã chọn ngõ cụt, bỏ chồng ra ngoài sống cuộc sống như thế này.
Bà chủ quán tỏ ra nhân từ nói: “Tất cả những cô dâu Việt làm ở đây đều có hoàn cảnh đáng thương lắm. Chúng nó còn trẻ nên cần tiền để trang trải cuộc sống và gửi về nhà giúp gia đình nên phải đi làm thêm ở đây…”. Lập luận của bà chủ quán, vốn cũng là một cô dâu Việt thật giản đơn như việc bà chọn nghề kinh doanh trái phép này để trục lợi trên thân xác chính đồng hương của mình.
Sau khoảng một tiếng đồng hồ chứng kiến mặt trái của những cô dâu Việt ở xứ đảo chúng tôi rời quán karaoke, nỗi lòng nặng trĩu những trăn trở, xót xa cho những bông hồng viễn xứ. Khi tiễn chúng tôi ra đến đại lộ, bà chủ quán không quên đưa danh thiếp, ngọt ngào buông lời tiếp thị: “Khi nào có dịp sang Đài nhớ gọi điện thoại và ghé thăm quán nhé!”. Hạt mưa đêm bỗng nặng hơn, tê tái hơn. Ước vọng lấy chồng ngoại để đổi đời của hàng chục ngàn cô dâu Việt sao mặn đắng giọt buồn…
Bài 3: Vươn lên giữa phong ba
Biết an phận, biết làm chủ cuộc đời, nhiều cô dâu Việt vẫn vươn lên. Gặp được bến đậu bình yên, những cô dâu này không chỉ thành đạt, sống tự tin mà còn được gia đình chồng quý mến, yêu thương…
Gặp bến trong
Đến thăm Nhà máy Hán Quang thuộc Đài Trung, chúng tôi gặp gỡ nhiều cô dâu Việt đang làm việc tại đây. Tự tin với công việc và thu nhập (mỗi tháng kiếm khoảng 13-15 triệu đồng) nên họ hài lòng với cuộc sống hiện tại. Kiều Thị Hạnh, quê ở thị trấn Phúc Vĩnh, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương vui vẻ cho biết: “Em lấy chồng được 7 năm và đã có hai cháu. Chồng em bán gạch men, thu nhập cũng ổn định. Chúng em sống hạnh phúc, thoải mái. Còn Trần Thanh Trang ở TPHCM cũng hài lòng với cuộc sống sau 11 năm làm dâu xứ người.

Dạy con đọc tiếng Việt trên lãnh thổ Đài Loan
Trang kể: “Chồng em làm lương cao gấp đôi em nhưng đưa hết cho em giữ. Vợ chồng em sống hòa thuận, chia sẻ với nhau mọi chuyện, em không cảm thấy buồn phiền điều gì. Nhà chồng rất thương yêu em, đối xử với em rất tốt. Em vẫn dạy con cái nói tiếng Việt và chồng cũng học theo để về Việt Nam nói chuyện với gia đình vợ”.
Ở Nhà máy Hán Quang có đến hơn 30 cô dâu Việt làm việc và hầu hết trong số họ đều tự tin với công việc, có cuộc sống khá yên ổn. Theo khảo sát của chúng tôi, những cô dâu sống ở TP thường đi làm kiếm thêm thu nhập, còn cô dâu ở những vùng thôn quê khổ hơn, phải làm nông khá vất vả, thu nhập cũng không cao. Do không có điều kiện về kinh tế nên các cô dâu ở vùng thôn quê sống an phận, tần tảo, chịu khó hơn.
Huỳnh Thị Thu N. tâm sự: “Đọc báo, nghe đài em thường gặp những cảnh cô dâu Việt bị chồng hắt hủi, gia đình chồng đối xử không công bằng. Riêng em, từ ngày theo chồng về quê, em cảm thấy mình may mắn, hạnh phúc vì gặp được người chồng tốt, gia đình chồng yêu thương hết mực”.
Nở nụ cười hài lòng khi nhắc đến gia đình của mình, Bùi Thị H., quê ở xứ bánh canh Trảng Bàng (Tây Ninh), thỏ thẻ nói: “Chồng em tuy lớn tuổi nhưng thương em lắm. Anh ấy cho em tự quyết mọi việc trong gia đình. Em muốn đi chơi, giao lưu với bạn bè người Việt đều được tạo điều kiện”.
Có không ít cô dâu Việt trở thành lao động chính, kinh doanh giỏi, nuôi cả gia đình chồng, chăm sóc bố mẹ chồng chu đáo, tận tâm. Theo ông Nguyễn Bá Cự, Chủ nhiệm Văn phòng Kinh tế Văn hóa Việt Nam tại Đài Loan, hiện có trên 100.000 cô dâu Việt, trong đó chiếm phần đông là người miền Tây.
Hạn chế của các cô dâu là lấy chồng ở độ tuổi còn quá trẻ nên thiếu kinh nghiệm, trình độ văn hóa thấp nên hiểu biết không nhiều khi hội nhập vào xã hội Đài Loan khá phát triển. Về kinh tế, có khoảng 15%-20% có kinh tế khá, 60% trung bình và 20% khó khăn do chồng không có việc làm ổn định, thu nhập thấp.
Đừng có thêm những giọt lệ tuôn rơi
Thời gian gần đây, làn sóng lấy chồng Đài giảm hẳn. Nếu vào đầu những năm 2000, mỗi tháng có vài ngàn cô dâu nhập cảnh về nhà chồng thì giờ chỉ còn khoảng 400-500 cô dâu/tháng. Nguyên nhân là do Việt Nam và Đài Loan đã từng bước kiểm soát, xem xét kỹ hồ sơ, ngăn chặn hôn nhân giả hoặc kết hôn theo những đường dây môi giới bất hợp pháp.
Mặt khác, những câu chuyện không vui về thân phận làm dâu xứ người đã phần nào thức tỉnh các cô gái Việt. Sau hàng loạt những vụ việc thương tâm xảy ra đối với các cô dâu ngoại bị bạo hành, bị đối xử thiếu công bằng, Chính phủ Đài Loan đã có nhiều biện pháp hỗ trợ, bảo vệ các cô dâu ngoại.
Nhiều trung tâm hỗ trợ cô dâu do Chính phủ Đài Loan, các tổ chức xã hội khác thành lập đã góp phần can thiệp và giải quyết những khó khăn, vướng mắc về pháp lý cho họ. Ngoài ra, ở các địa bàn nơi có cô dâu nước ngoài sống đều tổ chức các lớp học dạy kỹ năng sống, dạy tiếng Hoa, trang bị kiến thức, phong tục tập quán, ứng xử với gia đình chồng, dạy cách làm vợ, dạy nấu ăn theo kiểu Đài cho các cô dâu... Các cô dâu còn được hướng dẫn về việc đối phó với nạn bạo hành, gọi điện thoại khi cần giúp đỡ...
Ngoài ra, để thông tin thường xuyên đến cộng đồng người Việt đang làm việc sinh sống ở Đài Loan, chương trình phát thanh bằng tiếng Việt (mỗi tuần 1 giờ trên Đài Phát thanh TP Đài Bắc) đã ra đời, trở thành kênh thông tin thời sự, giải đáp những thắc mắc của cộng đồng người Việt tại đây.
Điểm khác biệt so với những lần đến Đài Loan trước đây mà chúng tôi cảm nhận được là có rất nhiều hội đồng hương VN được hình thành và trở thành nơi chia sẻ, hỗ trợ lẫn nhau của cô dâu Việt. Anh Triệu Huy, thành viên của Hội Công thương Việt - Đài cho biết, hội đã can thiệp hỗ trợ tư pháp, can thiệp bảo vệ quyền lợi cho nhiều trường hợp cô dâu bị chồng bạo hành, ngược đãi... Nhờ chỗ dựa ấm áp thân tình của hội đồng hương, những tổ chức hỗ trợ cô dâu nước ngoài của Đài Loan, nhiều cô dâu Việt bị đối xử không tốt đã chữa được vết thương lòng, tìm lại sự công bằng cho mình.
Theo ông Nguyễn Bá Cự, xu hướng hôn nhân đa quốc gia trong thời kinh tế hội nhập thế giới là điều tất yếu. Thế nhưng, điều mà các cơ quan chức năng của Việt Nam, chính quyền địa phương - nơi có nhiều cô gái trẻ nuôi ước muốn lấy chồng ngoại - cần làm là ngăn chặn tình trạng môi giới hôn nhân bất hợp pháp, lợi dụng hôn nhân ngoại để kinh doanh trục lợi.
Ở các địa phương nơi có nhiều cô gái Việt có nhu cầu lấy chồng ngoại cần thiết lập thêm nhiều cầu nối thông tin, tư vấn về pháp luật, hôn nhân để các cô gái ở các vùng quê cân nhắc trước khi bước lên xe hoa. Có như thế, chúng ta mới ngăn được những dòng nước mắt tủi buồn, nỗi đau bất hạnh vì “đậu” nhầm phải “bến đục” ở xứ người của các cô dâu Việt…
Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cần có giải pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời những đường dây môi giới hôn nhân bất hợp pháp, dụ dỗ, lôi kéo nhiều phụ nữ trẻ đi lấy chồng ngoại.
KHÁNH HÀ