50 năm Tạp chí Văn nghệ Quân đội

Một địa chỉ văn học, một đội ngũ nhà văn

Trong những ngày này, chúng tôi không khỏi bồi hồi nhớ tới các nhà văn, nhà thơ, thế hệ khai sinh đã góp phần làm nên danh hiệu cao quý của Tạp chí Văn nghệ Quân đội - đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân. Đó là các nhà văn Thanh Tịnh, Nguyễn Thi, Nhị Ca, Nguyễn Minh Châu, Xuân Miễn, Duy Khán, Phác Văn, Phùng Quán, Trần Dần, Hà Mậu Nhai, Nguyễn Trọng Oánh, Hải Hồ, Võ Trần Nhã, Thu Bồn, Mai Ngữ; các họa sĩ Hà Trì, Trương Hạnh và trước đó là các nhà văn Trần Đăng, Thâm Tâm, Thôi Hữu đã anh dũng hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Một địa chỉ văn học, một đội ngũ nhà văn

Trong những ngày này, chúng tôi không khỏi bồi hồi nhớ tới các nhà văn, nhà thơ, thế hệ khai sinh đã góp phần làm nên danh hiệu cao quý của Tạp chí Văn nghệ Quân đội - đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân.

Đó là các nhà văn Thanh Tịnh, Nguyễn Thi, Nhị Ca, Nguyễn Minh Châu, Xuân Miễn, Duy Khán, Phác Văn, Phùng Quán, Trần Dần, Hà Mậu Nhai, Nguyễn Trọng Oánh, Hải Hồ, Võ Trần Nhã, Thu Bồn, Mai Ngữ; các họa sĩ Hà Trì, Trương Hạnh và trước đó là các nhà văn Trần Đăng, Thâm Tâm, Thôi Hữu đã anh dũng hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Làm nền tảng cho sự xuất hiện của các nhà văn, nhà thơ ấy là một phong trào văn nghệ quần chúng rộng lớn cùng các ấn phẩm văn nghệ như Sinh hoạt văn nghệ của Cục Tuyên huấn, Tạp chí Lúa xanh, Mười chín (Liên khu 4), tập Áo xám (Liên khu 5), các sách báo khác ở các liên khu, đại đoàn, trung đoàn đã góp phần nuôi dưỡng tinh thần yêu nước cho những người cầm súng trong suốt một thời chống Pháp. Có thể nói đó là tiền thân của Tạp chí Văn nghệ Quân đội sau này.

Một địa chỉ văn học, một đội ngũ nhà văn ảnh 1

Tòa soạn Tạp chí Văn nghệ Quân đội sau 30-4-1975

Đất nước mãi mãi ghi nhận những đóng góp của họ. Cây súng, cây bút cùng với những di sản văn học quý giá của họ trao gửi lại đã được chúng tôi trân trọng gìn giữ, phát huy trong sự nghiệp sáng tạo, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Vào năm 1957, Tổng cục Chính trị đã quyết định xuất bản Tạp chí Văn nghệ Quân đội và giao cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội hai nhiệm vụ cơ bản: Xuất bản Tạp chí Văn nghệ Quân đội và sáng tác những tác phẩm về đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng.

Nhuần nhuyễn hai nhiệm vụ ấy, các nhà văn quân đội đã lên đường tham gia vào những sự kiện lớn của đất nước dẫn đến sự ra đời của các tác phẩm văn học tiêu biểu: Trăng sáng, Đôi bạn của Nguyễn Ngọc Tấn; Xung đột, Mùa lạc của Nguyễn Khải; Rẻo cao và trước đó là Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc...

Chúng ta có thể coi giai đoạn này là giai đoạn các nhà văn quân đội, Tạp chí Văn nghệ Quân đội chuẩn bị hành trang cho một cuộc chiến đấu quyết liệt, sống còn sau đó.

Năm 1962, các nhà văn Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành), Nguyễn Ngọc Tấn (Nguyễn Thi) được Tổng cục Chính trị giao nhiệm vụ trở lại chiến trường miền Nam. Nhà văn Nguyễn Thi cùng với các nhà văn Thanh Giang, Võ Trần Nhã đã góp phần thành lập và xuất bản Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng miền Nam.

Nhà văn Nguyên Ngọc cùng với các nhà văn Nguyễn Chí Trung, Thu Bồn góp phần thành lập và xuất bản Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung bộ. Tiếp đó là các chuyến đi bổ sung lực lượng cho hai tạp chí nói trên của các nhà văn Trúc Hà (Nam Hà), Nguyễn Trọng Oánh (Nguyễn Thành Vân); nhà văn Văn Phác cũng rời Tạp chí Văn nghệ Quân đội, đi theo đường mòn trên biển vào nhận công tác tại Bộ Tư lệnh Miền...

Hai tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng kể trên là sự tiếp nối của Tạp chí Văn nghệ Quân đội trên chiến trường miền Nam. Từ hai tạp chí xuất bản thủ công giữa các trận đánh, một loạt các tác phẩm xuất sắc nhất của giai đoạn này đã xuất hiện.

Có thể kể tới: Người mẹ cầm súng, Ở xã Trung Nghĩa của Nguyễn Thi; Đường chúng ta đi, Rừng xà nu của Nguyên Ngọc; Trường ca chim chơrao của Thu Bồn; Bức thư làng Mực của Nguyễn Chí Trung...

Ở miền Bắc, trong suốt cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, tòa soạn Tạp chí Văn nghệ Quân đội sơ tán về xã Hương Ngải, Thạch Thất, Hà Tây.

Từ vùng quê thân thiết này dưới sự điều hành của các nhà văn Thanh Tịnh, Vũ Cao và Từ Bích Hoàng, các chuyến đi chiến trường có thời hạn mà chúng ta quen gọi là đi B ngắn cũng liên tục được tổ chức.

Hữu Mai đến với các đơn vị trực chiến của không quân; Nguyễn Khải đi Cồn Cỏ, trụ bám với những người lính giữ đảo; Xuân Thiều, Nguyễn Minh Châu đi Quảng Trị, tham gia vào nhiều chiến dịch lớn; Hồ Phương, Mai Ngữ, Hải Hồ, Xuân Sách, Phạm Ngọc Cảnh, Ngô Thảo, Văn Thảo Nguyên, Vũ Sắc, Nguyễn Xuân Khánh, Trần Kim Trắc... đi tuyến lửa Khu 4; Lê Lựu, Nguyễn Thị Như Trang, Gia Dũng đi đường vận tải Trường Sơn.

Những chuyến đi gian khổ, lặp đi lặp lại trong nhiều năm đã dẫn đến sự ra đời của hàng loạt các tác phẩm tiêu biểu: Họ sống và chiến đấu, Chiến sĩ của Nguyễn Khải; Kan lịch, Khi có một mặt trời của Hồ Phương; Vùng trời của Hữu Mai; Lửa từ những ngôi nhà, Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu; Thôn ven đường của Xuân Thiều; Sao mai, Gió bấc của Dũng Hà; Mở rừng của Lê Lựu; Dòng sông phía trước của Mai Ngữ; Người cùng tuyến của Hải Hồ...

Tạp chí Văn nghệ Quân đội cũng như hai tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng ở miền Nam không ngừng chuẩn bị lực lượng cho một nhiệm vụ lâu dài của một đề tài văn học lớn thông qua các lớp bồi dưỡng ngắn hạn.

Khá nhiều tài năng văn học trẻ đã xuất hiện ở hầu khắp các Quân khu, Quân đoàn, Quân binh chủng. Có thể kể tới Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy, Đỗ Chu, Lưu Quang Vũ, Triệu Bôn, Anh Ngọc, Vương Trọng, Nguyễn Khắc Trường, Dương Duy Ngữ ở các trận địa phía Bắc; Phạm Tiến Duật, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Đức Mậu, Thanh Thảo, Văn Lê, Chu Lai, Khuất Quang Thụy, Trung Trung Đỉnh, Thanh Quế, Nguyễn Bảo, Thái Bá Lợi, Ngân Vịnh... ở các chiến trường phía Nam.

Tất cả đã quần tụ xung quanh Văn nghệ Quân đội, trưởng thành từ Văn nghệ Quân đội. Nhiều người trong số họ sau này đã trở thành cán bộ chủ chốt của Hội Nhà văn Việt Nam, của Tạp chí Văn nghệ Quân đội.

Nhìn lại chặng đường 50 năm, chúng ta ghi nhận một chủ trương đúng, một quyết định sáng suốt của Tổng cục Chính trị trong việc xây dựng, chuẩn bị lực lượng.

Chính nhờ có sự chuẩn bị như vậy mà đội ngũ biên tập, sáng tác của tạp chí là những nhà văn có bản lĩnh chính trị và bản lĩnh văn học. Tác phẩm của họ luôn đứng ở vị trí mũi nhọn của nền văn học cách mạng Việt Nam.

Trải qua 20 năm đổi mới, Tạp chí Văn nghệ Quân đội vẫn là tờ tạp chí văn nghệ có số lượng xuất bản cao nhất nước, chiếm được tình cảm của đông đảo bạn đọc, đặc biệt là bộ đội ở cơ sở.

Sự phát triển đất nước bền vững phải đặt trên nền tảng văn hóa. Khi đất nước ta tham gia vào WTO thì cùng với những thuận lợi, những thách thức mới đang gay gắt đặt ra.

Để phát huy truyền thống văn hiến ngàn năm của dân tộc, truyền thống văn hóa đẹp đẽ cùng quá khứ hào hùng của Quân đội nhân dân, Tạp chí Văn nghệ Quân đội chú trọng xây dựng đội ngũ nhà văn dũng cảm, trung thực, bám sát cuộc sống, có bản lĩnh và tài năng, đặc biệt là đội ngũ kế cận trưởng thành sau cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, hoàn thành tốt nhiệm vụ mới đang ngày càng nặng nề. 

NGUYỄN BẢO

Tin cùng chuyên mục