
Những ngày đầu năm này, trong chuyến đi thực tế “về lại chiến trường xưa”, tôi như được sống lại những năm tháng hào hùng của thời đánh giặc.
Những cảnh và người tôi gặp lại hôm nay, vừa quen, vừa lạ, như thực, như mơ. Cũng còn đó, tiếng ai quay nước giếng kẽo kẹt dưới ánh trăng khuya. Cũng tiếng gió rì rào qua cành lá báo hiệu mùa khô vào chiến dịch năm nào giữa rừng se lạnh, gọi bước hành quân. Cũng tiếng chim ăn đêm lẻ loi gọi bạn và tiếng sương rơi lộp độp như tiếng con chim ưng rớt lại trên mái lều.

Văn công quân đội phục vụ bộ đội chiến trường.
Cứ mỗi lần treo võng nằm giữa cái mênh mông, tĩnh mịch của rừng khuya hình ảnh năm xưa lại hiện lên ngổn ngang đưa tôi về lại cái thời trẻ trung của tuổi mười chín đôi mươi “tay súng vai đàn” cùng đồng đội vượt suối, xuyên rừng, “tiếng hát át tiếng bom” trong đội hình Đoàn văn công Quân giải phóng miền Nam.
Ngày ấy, khi các đơn vị chủ lực chuẩn bị hành quân vào chiến dịch thì đoàn văn công chúng tôi cũng rục rịch lên đường phục vụ chiến trường. Cùng với khẩu súng trên vai, ba lô trên lưng là đàn, sáo, phông màn, cảnh trí, gạo, đường, mắm muối trên xe đạp thồ. Cũng phương án hành quân trú quân, chiến đấu đánh địch đổ quân, biệt kích chặn đường, vượt bom nổ chậm và việc bố trí hỏa lực, đội hình, chiến hào công sự như một đơn vị bộ đội hành quân, tác chiến.
Rồi việc chuẩn bị cho một đêm diễn, bộ phận hậu đài và tiền trạm phải lên đường trước đó. Nếu phục vụ cơ quan thì có hội trường lá trung quân, sân khấu, ghế băng cho hàng trăm khán giả. Nhưng nếu là đơn vị dã chiến thì sân khấu là một bãi đất bằng dưới tán rừng già, bên bờ suối, triền đồi. Bàn ghế, đạo cụ là những thân cây rừng được tạo ra ngay tại chỗ. Ánh sáng sân khấu là đèn măng sông treo lên cây rừng trước sân khấu.
Dưới chân cột đèn là những cái lỗ được đào vừa đủ đặt cây đèn vào, đậy lại khi có máy bay địch bay ngang, quần đảo, bỏ bom, bắn phá. Chung quanh sân khấu là công sự, chiến hào bao bọc được bộ đội đào sẵn. Khi vào chiến dịch, hầu hết là diễn ban ngày. Mỗi ngày hai suất sáng, chiều, diễn rồi hành quân, hành quân rồi diễn. Tôi cùng những đồng đội thân yêu của mình đã từng sốt rét 39 - 40 độ vẫn ca, vẫn múa, vẫn diễn kịch. Diễn xong lên võng bộ đội khiêng, qua điểm mới lại diễn!
Khán giả đôi khi chỉ là một tiểu đội, đại đội, khi đông là cả tiểu đoàn. Có những đêm khán giả ngồi xem là đại tướng, trung tướng, thiếu tướng, là các vị lãnh đạo của Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam, là Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, là Trung ương Cục, là Ủy ban Liên minh Mặt trận Dân tộc giải phóng, nhưng cũng có khi là các thương binh mình quấn đầy băng trắng nhuốm máu hồng, nằm dưới các chiến hào, các căn hầm bệnh viện tiền phương!
Tiếng hát làm dịu nỗi đau và nỗi đau kia càng cho tiếng hát nồng nàn, thắm đượm tình người!
Và hình ảnh người chỉ huy đoàn đầu tiên tôi gặp khi tôi vừa rời ghế nhà trường vượt đồng bằng lên đây cứ in đậm trong tôi cho đến bây giờ. Chúng tôi thường gọi anh một cách thân thương: Anh Ba! Anh Ba Mực, anh Ba Xuân Hồng!
Sau ngày giải phóng, có lần về Sài Gòn, anh Ba cho tôi xem tập bản thảo anh viết cho tập sách “Nhạc và đời” của anh. Tôi nói, sao anh viết còn thiếu nhiều quá? Anh bảo tôi: Còn thiếu cái gì thì sau này tụi mày viết bổ sung, chớ... làm sao tao nói hết được!
Lần ấy, rừng Tây Ninh bước vào mùa khô 1966 – 1967. Sau trận càn Át- tơn-bơ-rô của Mỹ cuối năm 1966 thì cuộc càn Gian-xơn-xi-ty với 45.000 quân Mỹ mở màn cho mùa khô năm 1967. Bom đạn, bộ binh đặc cả khu rừng. Đoàn văn công Quân giải phóng miền Nam nằm lọt giữa bốn bề quân Mỹ. Đơn vị bạn, Điện ảnh Quân đội, trạm gác tiền tiêu đụng biệt kích, ta hy sinh một, bị thương một. Tổ tuần tra văn công phát hiện địch mò vào tới rìa đơn vị, mìn ĐH10 ta gài sẵn đã bị mất.
Đơn vị nhận định, có khả năng địch sẽ tấn công bằng cả xe tăng, pháo binh, trực thăng vào cứ của đoàn. Phải chiến đấu như thế nào vừa đánh được địch, vừa bảo vệ cứ và bảo toàn lực lượng mà đa số là nghệ sĩ, diễn viên, nhạc công, phụ nữ, thiếu niên? Căng thẳng! Bộ phận chiến đấu đạn đã lên nòng súng. Bộ phận còn lại tất cả đã sẵn sàng ba lô lên vai rút về phía sau. Nhưng xung quanh đều có địch, đâu cũng là phía trước, không có phía sau!
Đơn vị lúc này, Đoàn trưởng đi công tác xa mấy tháng nay, Chính trị viên về họp ở Cục Chính trị, còn lại đồng chí Đoàn phó chỉ huy. Trong tình huống này, anh em thực sự lúng túng. Bỗng chiều hôm ấy, từ cánh rừng phía sau cứ của đoàn, anh Xuân Hồng và anh Trí Thanh đột ngột xuất hiện. Thì ra, nghe tin đoàn nằm giữa vòng vây địch nên các anh luồn rừng về đây. Ngay trong đêm ấy, toàn đoàn văn công nhận được thông báo nhạc sĩ Xuân Hồng làm chỉ huy trưởng cuộc chiến đấu chống càn này!

NSƯT Thanh Nhanh và nghệ sĩ Thanh Thoảng, đoàn văn công quân giải phóng 1970.
Trưa hôm sau, lúc đơn vị chuẩn bị ăn cơm, trực thăng cán gáo, cá lẹp (trực thăng vũ trang) của địch xuất hiện quần đảo sát ngọn cây. Chúng bắn pháo cối, xả đại liên xuống ngay trên đầu chúng tôi. Những nòng súng của chúng tôi rà theo mấy chiếc trực thăng sẵn sàng nhả đạn. Lệnh từ chỉ huy sở: Không được bắn? Lộ địa điểm, địch sẽ hủy diệt.
Đêm hôm ấy, anh Ba ra lệnh cho trinh sát về bám địch, xem xét tình hình ở cứ cũ: Động Thiên Trúc. Cái tên của động này mang nét thần thoại, kiếm hiệp do chúng tôi đặt vì ở đó toàn là rừng tre. Khuya đó, đại bộ phận đoàn hành quân về đào hầm bí mật mới, dựa vào công sự, chiến hào cũ để cố thủ. Ngày hôm sau đó, địch vào chiếm cứ của chúng tôi. Cũng từ nơi căn cứ cũ, từng nhóm vũ trang nhỏ chúng tôi trở về tiêu diệt nhiều tên giặc, bắn rơi trực thăng và bắn cháy xe tăng Mỹ. Thật ít ai ngờ, những dũng sĩ diệt Mỹ, hạ trực thăng, đánh xe tăng của đoàn là các nhạc công, ca sĩ, hậu đài.
Một bữa nọ, quan sát nhận định tình hình sau nhiều trận quân giặc bị quân chủ lực ta nện cho tơi tả, hoạt động yếu dần, anh Xuân Hồng chỉ đạo các tổ du kích chúng tôi trở về đánh địch ở căn cứ. Anh nói, dù địch đang chiếm các công sự, hầm hào và hỏa lực mạnh nhưng nó là thằng ăn cướp. Chúng ta phải về nói cho kẻ thù biết ai là chủ những căn hầm ấy. Thằng địch phải sợ ta, chớ ta không sợ nó!...
Chúng tôi hiểu đó là mệnh lệnh của người chỉ huy, đó cũng là lòng căm giận sục sôi của một người nhạc sĩ. Hôm ấy, các cánh quân chúng tôi chiếm lại cứ, tìm được thi hài tử sĩ của đơn vị bạn bị địch lôi xuống công sự, gài mìn chực chờ chúng tôi sơ ý bước vào lấy xác đồng đội.
Từ đó tôi hiểu thêm, anh Ba Mực không chỉ là nhạc sĩ với những tác phẩm nổi danh: Bài ca may áo, Xuân chiến khu, Chiếc khăn tay, Tiếng chày trên sóc Bom Bo mà anh còn là một nhà quân sự có kiến thức chỉ huy tác chiến và là tay súng thiện xạ. Anh học khóa 1 Trường cán bộ Đại đội của R (Lò Gò), tiền thân của Trường sĩ quan Lục quân 2 ngày nay. Cứ mỗi lần đoàn đi đợt công tác xa trở về, gần tới cứ, anh Ba kéo chúng tôi ở lại đi săn thú, chờ đoàn về liên hoan mừng thắng lợi. Mỗi lần như thế, cứ nghe tiếng súng của anh là cầm chắc không có nai thì cũng vài con mễn được khiêng về.
Những ngày này trở lại rừng xưa, lòng tôi bồi hồi nhớ lại. Nơi ấy còn bao đồng đội nằm đó chưa tìm được mộ phần. Chị diễn viên kịch vừa vào đến chiến trường đã ngã xuống trên đường hành quân phục vụ vì sốt ác tính, người thì bị B52 hủy diệt không còn tìm thấy được một mảnh thi hài. Anh nhạc công, chị biên đạo múa bị cây đập vì cơn lốc rừng kinh hoàng. Và còn nữa, những cán bộ sáng tác đi chiến trường lọt ổ phục kích địch, các anh đã chiến đấu oanh liệt cho đến hơi thở cuối cùng. Đến nay gần nửa thế kỷ trôi qua, Đoàn văn công Quân giải phóng miền Nam đã giải thể 30 năm, những người lính ấy, màu xanh quân phục đã thay bằng bao sắc áo, nhưng trong lòng họ màu xanh của rừng lá chiến khu vẫn in đậm màu áo lính không thể nào quên.
NGÔ HỒNG KHANH