Lũng Cú - Vùng địa đầu Tổ quốc

Lũng Cú - Vùng địa đầu Tổ quốc

Tôi đang đứng bên cột mốc 422, điểm cao nhất của Tổ quốc Việt Nam, thuộc thôn Séo Lủng xã Lũng Cú huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang, trên đường kinh tuyến 105 độ Đông, 23 độ 22 phút vĩ độ Bắc, nơi được ví như mái nhà đất nước. Gần trưa, nắng đổ nghiêng trên sườn non, ong óng màu mật ong phủ lên nương ngô lá xanh thẫm đang trổ cờ lay động theo gió và kéo thành một vệt dài từ đỉnh núi xuống tận bờ vực, nơi dòng Nho Quế đang ì ầm đổ về xuôi. Đối diện nơi tôi đứng, bên phía bạn là dãy Sư Tử Sơn sừng sững. Người lính biên phòng chỉ cho tôi con đường đỏ quạch, uốn lượn xa tít tắp và ở gần cuối con đường là công trình thủy điện của Trung Quốc đang nhộn nhịp xây dựng…

Đề nghị mọi người đứng bên cột mốc chụp ảnh làm kỷ niệm, tôi dạo bước quanh cột mốc, tìm một mỏm đá cao đứng ngắm nhìn núi non, làng bản lần nữa, cố gắng lưu giữ lại trong tâm khảm, suy nghĩ, tình cảm của mình về hình ảnh địa đầu Tổ quốc. Bởi từ Hà Giang lên đây ngót 200km đường đất qua nhiều cổng trời, vực thẳm, sông suối.

Lũng Cú - Vùng địa đầu Tổ quốc ảnh 1

Tượng đài “Bác Hồ với đồng bào Hà Giang”. Ảnh: T.L.

Tôi đứng nghiêm trang như người lính, cúi đầu chào cột mốc Tổ quốc. Thuận tay, tôi nhặt một hòn đá 3 cạnh có hình như Kim tự tháp Ai Cập thu nhỏ bỏ vào túi xách làm kỷ niệm. Trên đường xuống núi, người lính trẻ quê ở Nghệ An tâm sự: Năm trước cháu cũng lấy hòn đá ở chân cột mốc, vào dịp nghỉ phép, cháu mang về quê đặt bên bàn thờ tổ cầu mong cho đất nước bình yên phát triển, người người no ấm hạnh phúc...

Gió thổi ào ào đưa chân chúng tôi xuống núi. Đường dốc, hoa dại nở tràn hai bên lối mòn, đất đai bạc màu do mưa gió rửa trôi. Đất đai hoang hóa Lũng Cú còn khá nhiều, nhưng chọn trồng cây gì cho thích hợp, rút ngắn thời gian thu hoạch và mang lại hiệu quả kinh tế là điều phải tính toán. Do vậy, ở đây đang phát triển việc trồng rừng trên những mảnh đất mà trong đó lổn nhổn những đá và sỏi.

Chúng tôi tạt vào ngôi trường mầm non nghỉ chân, cũng là lúc các em vừa hết tiết học. Chừng 10 em cả trai lẫn gái chạy nhảy tung tăng nói cười ồn ã trên một khoảng sân trường bằng phẳng. Cô giáo trẻ Vừ Thị Mỷ - người ở bản Séo Lủng chừng 20 tuổi, gương mặt rạng rỡ tiếp chúng tôi ở góc hành lang trường. Mỷ bảo: Vùng cao hiện giờ trường lớp đã khang trang, tiện nghi đầy đủ. Trước đây, bàn viết của học sinh chỉ là những tấm gỗ thải đóng với nhau, hoặc mấy cây bương ghép lại làm ghế cho các em ngồi, mái tôn lủng lỗ chỗ nên trời mưa thì dột ướt, lạnh lẽo... Nhìn ngôi trường khá tươm tất với lũ trẻ cười đùa vô tư tôi thật tình mừng cho Mỷ và sự nghiệp giáo dục miền núi đang có sự thay đổi tích cực.

Mảnh đất Séo Lủng đã trải qua nhiều biến cố của lịch sử, nhưng gần 50 hộ gia đình người Mông ở đây vẫn trụ vững, đoàn kết giúp đỡ nhau lúc tắt lửa tối đèn. Chương trình 134, 135 của Chính phủ được thực hiện rốt ráo đã làm cho bộ mặt của Séo Lủng thay đổi hẳn. Hầu hết nhà dân đều lợp mái nhà bằng tôn phi-brô xi măng, nhà nào cũng có bể nước ăn. Giữa bản có một bể chứa nước công cộng lúc nào cũng đông người. Giống ngô mới năng suất từ năm trước treo đầy trên gác bếp và ngoài hiên nhà. Nhiều gia đình còn làm chuồng nuôi bồ câu, có nhiều nhà chim én tự về làm tổ, tiếng chim non đòi ăn, tiếng hót gọi bạn của lũ chim líu lo nghe thật vui tai. Ngô ở đây vẫn là lương thực chính, để tự nâng cao đời sống và tăng thu nhập, đồng bào còn biết kết hợp gieo trồng tam giác mạch, đậu tương, đậu răng ngựa, rau quả các loại, nuôi bò, dê, gà, heo...

Những ngôi nhà của người Mông, với kiểu dáng kiến trúc xưa, đặc biệt là những ngôi nhà cổ - nhà trình tường với các vách tường bằng đất nện, mái lợp bằng ngói âm dương, có bờ rào đá và cổng ra vào bằng gỗ, vừa tạo vẻ ấm cúng, nhưng cũng rất gợi cảm hấp dẫn du khách. Màu hoa đào phai của núi rừng rất đẹp và lạ. Tôi chợt nghĩ hoa đào còn là tinh thần, văn hóa của người dân Việt Nam khi mỗi độ tết đến, xuân về. Nên chăng chúng ta có một lễ hội hoa đào của Lũng Cú - Đồng Văn, cùng với các sinh hoạt đêm phố cổ, đèn lồng đỏ cao nguyên…?

Xế chiều, một thầy giáo trẻ Trường tiểu học Lũng Cú dùng xe máy đưa tôi đi Tả Giao Khâu, cách trụ sở xã 6km.

Tả Giao Khâu là một trong 9 thôn bản của Lũng Cú, có 80 hộ đồng bào Mông sinh sống, cấy lúa trên ruộng bậc thang và trồng ngô trong hốc đá. Trưởng thôn Thò Sín Chơ, 39 tuổi, khoe với chúng tôi: So với các thôn bản khác, tình hình khan hiếm nước ở đây cơ bản được giải quyết. Toàn thôn không còn hộ đói do biết áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào canh tác, chăn nuôi nên lúa, ngô đạt năng suất cao, đàn gia súc bò, ngựa, dê... ngày một “đông” hơn, tình hình an ninh biên giới được giữ vững. Có điện lưới quốc gia, đêm đêm nhà văn hóa thôn đã trở thành “điểm hẹn” của đồng bào, trẻ em đến xem các chương trình của VTV phát trên chiếc ti vi chung của thôn, rất đông. Thanh niên nam nữ cũng thường xuyên tổ chức văn nghệ, hoặc giao lưu với các thôn bản khác.

Đêm ở trên núi cao xuống rất nhanh. Dùng bữa ở nhà ăn Lũng Cú xong, tôi định bụng nghỉ sớm để mai còn đi Thiên Hương và leo lên đỉnh Độc Sơn. Bất ngờ ở phía làng Lô Lô Chải, tiếng trống đồng được tấu lên ngân nga, hòa cùng một số nhạc cụ dân tộc quen thuộc đàn nhị, kèn pí lè, khèn bè..., có cả giọng hát nam nữ trầm bổng cất lên. Tôi hỏi người quản lý nhà khách thì được biết là đội văn nghệ không chuyên của Lô Lô Chải đang tập để đêm mai biểu diễn phục vụ đoàn khách đặc biệt từ miền Nam ra.

Là vùng quê lâu đời của đồng bào dân tộc Mông và Lô Lô, có diện tích tự nhiên 3.460ha, có 503 hộ; 3.051 nhân khẩu, Lũng Cú có đường biên giới giáp với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hơn 16km. Bà con dân tộc ở Lũng Cú canh tác chủ yếu là trồng ngô trên nương rẫy và làm ruộng bậc thang cấy lúa. Nổi bật là đồng bào dân tộc Mông, Lô Lô vẫn bảo tồn nghề dệt truyền thống, với các sản phẩm đặc trưng của họ: se lanh, dệt vải, rèn đúc lưỡi cày và làm ngói âm dương lợp nhà. Những năm trước đây, mỗi khi nhắc tới Lũng Cú, hình ảnh ấn tượng trong lòng du khách là đường giao thông xuyên qua những dãy núi cheo leo hiểm trở, nơi mùa đông kéo dài với khí hậu lạnh buốt và thỉnh thoảng lại có tuyết rơi. Cuộc sống của đồng bào các dân tộc còn nhiều khó khăn gian khổ. Ngày nay, dưới ánh sáng đường lối đổi mới, với những chính sách đầu tư kịp thời của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc ít người vùng cao Lũng Cú đã có nhiều đổi thay.

Lũng Cú - Vùng địa đầu Tổ quốc ảnh 2

Nhà trình tường ở Đồng Văn.

Từ năm 2001, con đường từ Đồng Văn lên Lũng Cú đã được nâng cấp, trải nhựa phẳng phiu, dòng điện quốc gia đã thắp sáng mảnh đất địa đầu và ở Lũng Cú, cột cờ Tổ quốc được dựng trên đỉnh núi Rồng trông xa như một ngọn tháp, có hình dáng cột cờ Hà Nội, cao gần 20m, chân bệ có 6 mặt phù điêu mang nét hoa văn của trống đồng Đông Sơn, lá cờ Tổ quốc rộng 54m tung bay, kiêu hãnh giữa bầu trời biên cương, như ngọn lửa bất diệt, in bóng xuống mặt hồ Lô Lô xanh biếc. Ở lưng chừng núi Rồng có hang Sì Mần Khan rộng đẹp, hấp dẫn...

Tên gọi Lũng Cú có nhiều giả thiết: Long Cư (rồng ở, động rồng), Lũng Ngô (bởi cánh đồng Thèn Pả trồng nhiều ngô), lại có giả thiết Lũng Cú là tên người đứng đầu một dòng họ dân tộc Lô Lô, có công khẩn hoang, gìn giữ và phát triển vùng đất. Nhưng nhiều người cho rằng: Lũng Cú có lẽ bắt đầu từ chữ Long Cổ (long: rồng; cổ: trống) nghĩa là trống rồng.

Thời phong kiến rồng tượng trưng cho vua, trống rồng là trống của nhà vua. Theo lời kể của các bậc cao niên, trước đây đồng bào Lô Lô có phong tục may sắm quần áo đúng kiểu của dân tộc Lô Lô ở Lũng Cú để mặc cho người qua đời, bởi họ nghĩ mặc như thế tổ tiên mới nhận. Hiện nay đồng bào Lô Lô ở Lũng Cú, Mèo Vạc (Hà Giang) đều sử dụng thành thạo trống đồng. Trống đồng của đồng bào Lô Lô có nguồn gốc từ trống đồng Đông Sơn, như vậy Lũng Cú còn bảo lưu được những hiện vật lịch sử, văn hóa quý giá tiêu biểu rực rỡ của thời Hùng Vương. Theo sử sách vào thời Tây Sơn, Hoàng đế Quang Trung đã cho đặt ở nơi biên ải hiểm trở này một chiếc trống lớn, thời đó tiếng trống là phương tiện thông tin nhanh nhất, vị trí đặt trống của nhà vua là trạm biên phòng tiền tiêu Lũng Cú bây giờ...

Xã Lũng Cú bao gồm 9 thôn, bản: Lô Lô Chải, Seo Lủng, Tả Giao Khâu, Cẳn Tằng, Thèn Ván, Thèn Pả, Sì Mần Khan, Sán Chồ, Sán Sà Phìn, tất cả ở độ cao trung bình từ 1.600 - 1.800m so với mặt nước biển. Khi nói về nước Việt Nam liền một dải, người ta hay nêu từ Trà Cổ (Quảng Ninh) đến Cà Mau (nếu tính theo bờ biển) hoặc từ Mục Nam Quan (Lạng Sơn) đến Cà Mau (nếu tính theo trục đường quốc lộ), hoặc từ Lũng Cú đến Cà Mau (nếu tính giới hạn của vĩ độ). Còn nếu kể đến địa danh hẹp và nếu chi li hơn thì phải nói từ xóm Seo Lủng của Hà Giang đến xóm mũi Rạch Tàu của Cà Mau.

Trở về Hà Nội, tôi mang theo trong lòng nỗi nhớ về một vùng đất của chè san, rượu mật ong và thắng cố, xứ sở của đào phai, hoa lê, tuyết trắng và náo nhiệt buổi chợ phiên, tiếng đàn môi tâm tình gọi bạn, tiếng khèn Mông quyến rũ người tình, tiếng trống đồng âm vang bên bếp lửa nồng đượm đêm dài... 

CAO XUÂN THÁI

Tin cùng chuyên mục