Thành phố Hồ Chí Minh

30 năm vì cả nước, cùng cả nước xây dựng CNXH

30 năm vì cả nước, cùng cả nước xây dựng CNXH

30 năm trước đây, với sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh, ngày 30-4-1975 thành phố Sài Gòn - Gia Định đã được hoàn toàn giải phóng. Ngày ấy mãi mãi trở thành biểu tượng rực rỡ của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thần thánh của nhân dân ta. Kể từ thời điểm đó, thành phố Hồ Chí Minh bước vào giai đoạn lịch sử mới - giai đoạn vì cả nước, cùng cả nước tiến hành sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Ba mươi năm qua là quãng thời gian ngắn ngủi so với lịch sử hàng ngàn năm của đất nước. Nhưng nhìn lại những thành quả cách mạng mà Đảng bộ và nhân dân thành phố đã đồng tâm hiệp lực phấn đấu để giành được, lòng mỗi người chúng ta chan chứa niềm vui phấn khởi và tin tưởng, tự hào.

30 năm vì cả nước, cùng cả nước xây dựng CNXH ảnh 1

Một khu đô thị mới của TPHCM.

Chúng ta đều biết, Sài Gòn - Gia Định là điểm quyết chiến chiến lược cuối cùng của 21 năm kháng chiến chống Mỹ. Sau khi chiến trường ngưng tiếng súng, quá khứ đã để lại nơi đây những hậu quả nặng nề về nhiều mặt.

Thành phố trước kia vốn là nơi ăn chơi xa xỉ, chủ yếu sống bằng nguồn ngoại viện, điển hình của sự phụ thuộc vào nước ngoài. Nền kinh tế ở trong trạng thái bị què quặt, mất cân đối, bởi nó được hình thành là nhằm phục vụ nhu cầu của cuộc chiến tranh xâm lược.

Trong khi vết thương trên cơ thể của nền kinh tế bị suy kiệt chưa kịp lành lặn, thành phố đã phải trực diện đương đầu với những thử thách mới vô cùng nghiệt ngã: thiên tai nghiêm trọng xảy ra dồn dập, chiến tranh trên tuyến biên giới Tây-Nam gây ra nhiều thảm họa, nguồn viện trợ từ các nước cộng đồng xã hội chủ nghĩa ngày càng suy giảm, giá cả trên thị trường thế giới liên tục tăng đột biến... Những khó khăn khách quan ấy, cộng với sự non yếu của chúng ta trong công tác quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý đô thị… đã tạo thêm những cản ngại không nhỏ đối với một thành phố vốn rất năng động và nhạy cảm.

Xuất phát từ thực trạng trên đây, sau ngày đất nước giải phóng, trải qua bảy nhiệm kỳ đại hội đại biểu, Đảng bộ và các tầng lớp đồng bào thành phố Hồ Chí Minh đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, cố gắng phấn đấu vượt qua những khó khăn trở ngại, với nhiều sáng tạo tìm những phương hướng, bước đi và cách làm đúng đắn, đưa thành phố không ngừng tiến bước trên con đường đổi mới.

Sự cải biến diện mạo lớn nhất trong 30 năm là thành phố đã được “xây dựng đàng hoàng hơn to đẹp hơn”, trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học của các tỉnh phía Nam và cả nước. Đúng như sự phân tích của đồng chí cố Tổng Bí thư Lê Duẩn “từ một thành phố ăn chơi xa xỉ, phục vụ bọn thống trị, bọn bóc lột, đã được cải tạo, xây dựng thành thành phố của người lao động, phục vụ nhân dân lao động”(1).

Thực tế cho thấy, trong nhiều năm qua kinh tế của thành phố ngày càng đi vào thế ổn định, sự chuyển dịch cơ cấu phù hợp với xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa. GDP bình quân hàng năm không ngừng tăng cao. Càng đi sâu vào giai đoạn tháo gỡ và thời kỳ đổi mới, nhịp độ của sự tăng trưởng càng vượt trội.

Với diện tích 2.000 km2 và dân cư chiếm 6,6% dân số cả nước, thành phố đã đóng góp 40% kim ngạch xuất khẩu, 31,6% tổng thu ngân sách quốc gia, 29,4% giá trị sản xuất công nghiệp, 28% giá trị gia tăng các ngành dịch vụ, gần 20% tổng sản phẩm cả nước...

So với mức bình quân trên toàn quốc, thành phố đứng đầu về mức tăng GDP, là nơi có lượng trang bị máy tính gấp 8 lần, tỷ lệ người sử dụng Internet gấp 7 lần, điện thoại gấp 3,5 lần. Trong vòng 20 năm qua, thành phố cơ bản đã xóa được nạn đói. Sự nghiệp điện khí hóa nông thôn đã hoàn thành. Từ năm 1990 trở lại đây, thành phố đã chi ngân sách cho các ngành giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội tăng bình quân từ 16,9% đến 23,9% mỗi năm.

Cuối năm 1995, thành phố đã đạt được tiêu chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Mạng lưới y tế được phân bố rộng khắp trên các địa bàn quận, huyện, phường, xã. Số giường bệnh mỗi năm tăng 12%.

So với thời gian trước giải phóng, thành phố ngày càng được chỉnh trang diện mạo và mở rộng quy mô phát triển. Nhiều tuyến đường, trục đường, nút giao thông quan trọng đã được cải tạo, các dự án lớn và công trình trọng điểm đã được xây dựng như: mạng lưới cầu đường, hệ thống cảng và kho bãi; mạng bưu chính viễn thông; các trung tâm thương mại - dịch vụ hiện đại; các khu đô thị lớn; các khu chế xuất; các khu công nghiệp tập trung và khu công nghệ cao...

Trong những năm qua, thành phố đã xây dựng mới thêm 3 triệu m2 nhà ở. Bình quân hàng năm giải quyết được 18 vạn chỗ làm mới cho người lao động. Những vấn đề bức xúc về tình trạng nhà ổ chuột trên các kênh rạch và khu lao động, về nước sạch, điện chiếu sáng, xử lý úng ngập, rác thải, chống kẹt xe nội thị... từng bước được giải quyết có hiệu quả.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn không ít việc phải làm để tiếp tục khắc phục có hiệu quả những yếu kém, tồn tại. Đó là chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp so với tiềm lực; hoạt động khoa học - công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu phát triển thành phố; tệ nạn xã hội, mãi dâm, ma túy còn là vấn đề nhức nhối; hệ thống chính trị, nhất là tổ chức cán bộ chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ.

Vui mừng trước thành tựu và nhìn thẳng vào những yếu kém, tồn tại trong chặng đường đã đi qua, Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện, đặc biệt là những bài học quý báu sau đây:

Một là, phải luôn luôn nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng trong mọi thời kỳ và vận dụng một cách năng động, sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể và tính chất đặc thù của thành phố, biến mọi chủ trương của Đảng thành sức mạnh, ý chí của khối đại đoàn kết toàn dân, thành phong trào hành động cách mạng của quần chúng.

Lịch sử đã chứng minh tính năng động và bản lĩnh sáng tạo là đặc tính có tính chất truyền thống của Đảng bộ và nhân dân Sài Gòn - Gia Định - thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt được thể hiện mạnh mẽ ở những khúc quanh của lịch sử, khi thành phố phải trực diện đương đầu với những khó khăn thử thách nghiệt ngã.

30 năm qua, nhờ biết tận dụng thế mạnh này Đảng bộ thành phố đã phát huy có hiệu quả các nguồn lực về con người và tiềm năng, cố gắng liên tục vượt qua những thử thách hết sức nghiêm trọng trong những năm 1979 - 1980 bằng việc khai thác tối đa sức mạnh tổng hợp của yếu tố nội sinh.

Với tinh thần dám nghĩ, biết làm, dám chịu trách nhiệm, trải qua nhiều năm tháng Đảng bộ thành phố đã kiên trì tiến hành những cuộc tìm tòi, thử nghiệm, phát kiến ra những mô hình mới, biện pháp mới, cách làm mới, tạo nên xung lực mạnh mẽ làm đà cho sản xuất kinh doanh “bung” ra nhằm “tháo gỡ” những trói buộc của cơ chế quản lý kinh tế bao cấp - hành chánh - quan liêu - duy ý chí, mở đường khai thông cho lực lượng sản xuất phát triển; đóng góp có ý nghĩa cho các tỉnh, thành ở khu vực đồng bằng Nam bộ và trong cả nước tìm ra giải pháp xác đáng để giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc.

Từ khi Nghị quyết 01-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành đến nay, 23 năm đã trôi qua, bằng bản lĩnh năng động và sáng tạo của mình, Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh đã liên tục khơi dậy các phong trào hành động cách mạng của quần chúng. Thông qua những điển hình tiên tiến xuất hiện trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và từ những đơn vị cơ sở ở phường, xã... giống như một mũi nhọn đột phá, một lực lượng tiên phong, dám tự khẳng định mình, sẵn sàng đương đầu trước những khó khăn và chấp nhận mọi thử thách để khai phá con đường mới, tháo gỡ những trói buộc, đẩy mạnh sản xuất và ổn định đời sống.

Việc tìm tòi và phát hiện ra những mô hình mới như: cải tạo xã hội chủ nghĩa gắn với việc tổ chức lại sản xuất; việc thực hiện các đòn bẩy kinh tế bảo đảm “ba lợi ích” và các quan hệ hàng hóa - tiền tệ; việc kế hoạch hóa kết hợp với thị trường; việc liên kết giữa nông nghiệp với công nghiệp, sản xuất với lưu thông; việc làm thí điểm đổi mới cơ chế quản lý cấp phường, việc nghiên cứu cải tiến thủ tục hành chánh theo mô hình “một cửa, một dấu” ở ủy ban nhân dân các quận, huyện; việc phân cấp thêm quyền hạn cho quận, huyện về xây dựng cơ bản, nhà đất, thu chi ngân sách; việc bước đầu phân định chức năng quản lý nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh,... là những đóng góp rất có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn vào quá trình đổi mới của Đảng ta.

Hai là, phải luôn luôn vận dụng quán triệt “đường lối quần chúng” của Đảng trong các lĩnh vực công tác và hoạt động, trên cơ sở thấu suốt quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, “dân là gốc”, “xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân”.

Cùng với sự thay đổi về tư duy lý luận và kinh tế, kết quả của việc mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là những bài học kinh nghiệm quý giá của Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh trong 30 năm qua. Ngay sau ngày thành phố Sài Gòn - Gia Định được giải phóng, quán triệt tư tưởng “đại đoàn kết” của Bác Hồ, chúng ta đã thi hành chính sách hòa hợp dân tộc, làm cho mọi công dân thành phố nâng cao lòng tự hào trước thắng lợi vĩ đại của dân tộc.

Việc tổ chức các đại hội quần chúng ở cơ sở tham gia đợt báo công với quy mô lớn hồi mùa thu 1975, cuộc bầu cử Quốc hội thống nhất năm 1976, cuộc bầu cử hội đồng nhân dân 3 cấp thành phố, quận, huyện, phường, xã đầu năm 1977... là những đợt vận động dân chủ sâu rộng chưa từng có.

30 năm vì cả nước, cùng cả nước xây dựng CNXH ảnh 2

So với mức bình quân trên toàn quốc, tỷ lệ người sử dụng Internet tại TPHCM gấp 7 lần.

Trong những năm 1979 - 1980, giữa lúc thành phố đang phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, các tầng lớp đồng bào ta đã nỗ lực cùng với Đảng bộ thành phố ra sức khắc phục khó khăn, tìm tòi hướng suy nghĩ mới, cách làm ăn mới, phát kiến ra những mô hình mới.

Thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, “Trung ương, địa phương và cơ sở cùng làm”, “Thành phố và quận, huyện cùng lo”, những mô hình sản xuất kinh doanh tiên tiến xuất hiện ngày càng nhiều, được phổ biến và nhân rộng nhanh chóng.

Quận, huyện nào, ngành nào, lĩnh vực công tác nào, tổ chức quần chúng và đoàn thể xã hội nào cũng đều dấy lên phong trào thi đua sôi nổi với nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Trong công nhân, có phong trào: luyện tay nghề, thi thợ giỏi, nâng cao chất lượng sản phẩm, thực hành tiết kiệm, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa...

Trong nông dân có phong trào: làm thủy lợi, sử dụng các giống lúa mới, xây dựng cánh đồng mẫu, phát triển kinh tế gia đình... Trong thanh niên có phong trào: ba xung kích, thanh niên lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nước, tiến quân vào mặt trận khoa học - kỹ thuật, xây dựng công trình của thanh niên, nhà máy của thanh niên, cánh đồng mẫu cao sản của thanh niên...

Trong phụ nữ, có phong trào: tham gia vào các hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông phân phối, chăm lo đời sống, giúp nhau phát triển kinh tế gia đình... Nội dung các phong trào này đều hướng vào việc thực hiện mục tiêu tăng năng suất lao động, giảm chi phí, hạ giá thành, tăng giá trị sản phẩm, nâng cao chất lượng hàng hóa, nâng cao tiền lương và quỹ khen thưởng nhằm cải thiện đời sống của cán bộ, công nhân viên chức và người lao động.

Nhiều công trình văn hóa, bệnh viện, trạm y tế, trường học, đường sá, cầu cống, nạo vét luồng lạch, phát triển giao thông nông thôn... đều có sự đóng góp của nhân dân cả về nhân lực, vật lực và tài lực.

Một điều hết sức ngoạn mục là các phong trào thi đua được khơi dậy nối tiếp nhau tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy đội ngũ công nhân và trí thức thành phố nỗ lực phấn đấu khắc phục khó khăn, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, đã làm xuất hiện hàng vạn lao động tiên tiến, 7.000 chiến sĩ thi đua, 2.000 tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa và đóng góp 34.000 sáng kiến có giá trị. Những đóng góp to lớn kể trên đã cung cấp cơ sở thực tiễn cho Đảng bộ tìm ra những chính sách, biện pháp tháo gỡ có kết quả nhiều khó khăn về năng lượng, nguyên liệu, vốn, giá cả và cơ chế quản lý.

Như những dòng sông đổ ra biển cả, từ các đơn vị và cá nhân tiên tiến xuất hiện trong thời kỳ 1978 - 1980, đến nay đã phát triển thành những cuộc vận động chính trị - xã hội với quy mô sâu rộng, có sức lan tỏa lớn lôi cuốn sự tham gia đông đảo của mọi lứa tuổi, mọi giai tầng trong xã hội, các sắc tộc và tôn giáo, giới trí thức và văn nghệ sĩ, đồng bào trong nước cũng như kiều bào ở nước ngoài...

Tất cả đã tạo thành phong trào toàn xã hội chăm lo cho người nghèo, xóa đói giảm nghèo; phong trào xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương; phong trào phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng; phong trào “đem lại nụ cười cho trẻ thơ”, ánh sáng cho người bị mù lòa”, “đem lại mái ấm và lớp học tình thương cho trẻ em lang thang trên đường phố”; phong trào người dân sản xuất giỏi, làm giàu chính đáng; chương trình thực hiện mục tiêu “ba giảm” v.v...

Ngoài việc khuyến khích các tầng lớp đồng bào ta tích cực tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, quản lý đô thị thông qua những cơ quan dân cử và các đoàn thể nhân dân, Đảng bộ thành phố còn chỉ đạo các cấp quận, huyện, phường, xã phát huy quyền “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, nhằm tạo điều kiện để cho nhân dân thiết thực tham gia vào 4 cuộc vận động đã và đang được tích cực triển khai: đấu tranh chống tham nhũng; chống buôn lậu; chống lãng phí, thực hành tiết kiệm; giảm phiền hà cho nhân dân.

Ba là, phải giữ vững sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ Đảng để làm cơ sở tạo ra sự đồng thuận trong xã hội và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ.

Phân tích nguyên nhân của những bài học thành công và chưa thành công xuyên suốt 30 năm qua, Đảng bộ thành phố rút ra kết luận: giữ vững sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ Đảng chính là một trong những nhân tố bảo đảm thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ thành phố.

Thực tế cho thấy, cách đây 30 năm, từ 162 chi bộ ở nội ngoại thành với 4.175 đảng viên trước ngày giải phóng, đến nay số lượng đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng đã được tăng lên gấp nhiều lần: hơn 12 vạn đảng viên và 2.593 tổ chức cơ sở Đảng.

30 năm vì cả nước, cùng cả nước xây dựng CNXH ảnh 3

Cầu Kinh Tẻ nối quận 4-quận 7, tạo điều kiện phát triển kinh tế-xã hội phía Nam TP

Đội ngũ cán bộ, đảng viên thành phố Hồ Chí Minh chẳng những đông về số lượng, mà còn đa dạng về kết cấu thành phần. Kế thừa và phát huy truyền thống quý báu trong các thời kỳ cách mạng trước đây, bước vào giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ vững được sự đoàn kết, nhất trí cao.

Đoàn kết trong Đảng là nhân tố hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân, là động lực quan trọng giúp thành phố thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc; bước đầu thực hiện công cuộc đổi mới thành công; giải quyết có hiệu quả vấn đề “ai thắng ai” trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành phố; giữ vững được sự kiên định nhất quán đối với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh sau khi Liên Xô và các nước cộng đồng xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu bị sụp đổ.

Kiểm điểm việc bảo vệ và giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ Đảng, Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh đã rút ra được một số bài học kinh nghiệm chủ yếu sau đây:

1. Tiêu chí của sự đoàn kết nhất trí được xác lập trên cơ sở đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên phải thống nhất ý chí và hành động, nói và làm theo nghị quyết của Đảng, kiên quyết xử lý những người có nhận thức lệch lạc hoặc cố tình vi phạm nguyên tắc Đảng làm sai cương lĩnh, Điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước, truyền bá những ý kiến trái với những quan điểm của Đảng.

2. Sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ được củng cố và phát huy trên cơ sở của sự tự chỉnh đốn, tự đổi mới, thông qua các cuộc vận động xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo, nâng cao uy tín và thanh danh của Đảng, thắt chặt mối quan hệ mật thiết gắn bó với quần chúng.

3. Nếu không triển khai tích cực 6 biện pháp chống tiêu cực, 4 cuộc vận động và 5 nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng do các Đại hội đại biểu của Đảng bộ thành phố đề ra thì không thể nào thực hiện tốt sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ Đảng.

Đoàn kết nhất trí chỉ có thể được vun bồi trên cơ sở tiến hành thường xuyên công tác giáo dục tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng và bản lĩnh chính trị, chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, thực dụng, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, làm trong sạch đội ngũ cán bộ đảng viên.

4. Để củng cố sự đoàn kết nhất trí, cần phải giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt Đảng, chống mọi biểu hiện vi phạm dân chủ, dân chủ hình thức, hoặc lợi dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích riêng cục bộ, bản vị, làm suy yếu sức mạnh của tổ chức Đảng. Phải đảm bảo dân chủ trong sinh hoạt nội bộ – từ sinh hoạt chi bộ đến sinh hoạt cấp ủy và những cơ quan lãnh đạo ở các cấp, các ngành.

5. Từng tổ chức cơ sở Đảng phải thường xuyên và nghiêm túc thực hiện tự phê bình, phê bình để khắc phục tình trạng yếu kém, thiếu thống nhất và chủ động ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống của cán bộ đảng viên.

6. Nhằm đảm bảo sự thống nhất ý chí và hành động trong nội bộ, phải tạo điều kiện để cho nhân dân góp ý về sự lãnh đạo của tổ chức Đảng và hoạt động của các cơ quan chính quyền, nhận xét cán bộ đảng viên và công chức nhà nước một cách thẳng thắn, trung thực, chân tình.
Bốn là, phải biết triệt để khai thác nguồn lực nội sinh của thành phố gắn kết chặt chẽ với việc huy động sức mạnh tổng hợp nguồn liên doanh hợp tác với các địa phương khu vực và cả nước, với sự hội nhập và hợp tác quốc tế.

Do vị trí hình thành trong quá trình lịch sử và cùng đứng chung trên một chiến tuyến trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, giữa thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định và các địa phương trong khu vực phía Nam có mối quan hệ hợp tác gắn bó mật thiết. Trải qua 30 năm sau ngày giải phóng, mối quan hệ hợp tác và liên kết ấy đã được mở rộng phạm vi và phát triển thêm nhiều nội dung mới.

Hoạt động hợp tác giữa thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh trong khu vực đã được thực hiện có hiệu quả trong nhiều lĩnh vực sản xuất, phân phối, lưu thông, văn hóa - xã hội, giáo dục, đào tạo… nhằm tập trung lực lượng khai thác thế mạnh của mỗi địa phương. Ngay trong thời kỳ đầu của thập niên 80, thành phố Hồ Chí Minh cùng một số tỉnh đã có kế hoạch từng bước đầu tư phát triển sản xuất, tạo thêm nguồn hàng cho tiêu dùng và xuất khẩu.

Trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn chung, thành phố đã đáp ứng được một phần yêu cầu của các tỉnh về thiết bị, máy móc phục vụ nông nghiệp, chế biến nông, lâm hải sản, phụ tùng thay thế, xây dựng trường học, trạm trại, kho tàng, đường sá, đóng sà lan, tàu kéo, xây dựng vùng lúa cao sản...

Sau khi làm nghĩa vụ với trung ương, các địa phương trong khu vực cũng đã cung ứng cho thành phố nguyên liệu cho công nghiệp, nông sản xuất khẩu, lương thực, thực phẩm. Nhìn chung, kết quả trong mối quan hệ hợp tác giữa thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh trong nhiều năm qua đã giúp nhau khắc phục các mặt mất cân đối trong sản xuất và đời sống, phát huy thế mạnh của từng địa phương và tăng thêm sản phẩm cho xã hội.

Ngoài khu vực đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, hoạt động hợp tác, liên doanh, liên kết của thành phố Hồ Chí Minh còn được triển khai và mở rộng thêm ở các vùng Đông Nam bộ, Tây Nguyên và một số khu vực của vùng ven biển miền Trung.

Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua việc thành phố Hồ Chí Minh đóng góp có hiệu quả vào việc xây dựng công trình thủy điện Trị An, hợp tác với các tỉnh Tây Nguyên trồng và chế biến cây công nghiệp, hợp tác với tỉnh Long An để khai thác Đồng Tháp Mười, trồng cây cao su ở miền Đông Nam bộ, v.v...

Sự hợp tác và liên kết giữa thành phố Hồ Chí Minh với những tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và các địa phương trong khu vực về hoạt động kinh tế đối ngoại đã được mở rộng trên nhiều lĩnh vực. Tính đến cuối năm 1999, trên địa bàn thành phố đã có hơn 1.400 văn phòng đại diện nước ngoài thuộc 46 quốc gia, chiếm 70% của cả nước.

Ngoài lượng hàng xuất nhập khẩu chính cho mình, thành phố còn đảm nhiệm vai trò xuất nhập khẩu cho các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả vùng Nam bộ.

Những năm qua, Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh còn quan tâm đến việc phát huy sức đóng góp của lực lượng kiều bào ta ở nước ngoài, tạo mối tin cậy để gắn bó giữa kiều bào với thân nhân và nhân dân trong nước. Đồng thời, ra sức phát huy, khai thác thế mạnh của đồng bào người Hoa ở thành phố trong việc thu hút đầu tư từ người Hoa ở ngoài nước.  

* * * 

Sau 30 năm kể từ ngày giải phóng, thành phố Hồ Chí Minh đã “cùng cả nước” không ngừng nỗ lực phấn đấu khắc phục khó khăn để ổn định và phát triển đi lên. Và “vì cả nước” thành phố Hồ Chí Minh đã nỗ lực tìm tòi, thử nghiệm vận dụng mô hình cơ chế quản lý mới nhằm góp phần có ý nghĩa vào việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng ta; đồng thời đã đóng vai trò tích cực đối với cả nước bằng việc tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư, tạo nguồn thu cho ngân sách và giải quyết các vấn đề xã hội.

Để làm tròn sứ mệnh lịch sử trong giai đoạn mới. Đảng bộ và nhân dân thành phố Hồ Chí Minh sẽ đem hết sức lực, trí tuệ và tài năng của mình để hoàn thành và hoàn thành xuất sắc trọng trách nặng nề, vẻ vang của Đảng giao phó:

“Vì cả nước, cùng cả nước, thành phố Sài Gòn hôm qua đã được giải phóng.
Vì cả nước, cùng cả nước, thành phố Hồ Chí Minh hôm nay nhất định xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”(2).
—————————
(1), (2): Trích trong bài nói của đồng chí Lê Duẩn, tại Đại hội Đại biểu lần thứ III Đảng bộ TPHCM, tháng 11-1983. 

NGUYỄN MINH TRIẾT
(Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TPHCM)


Tin cùng chuyên mục