Cần biết khi mang thai hộ

* Luật quy định thỏa thuận giữa người nhờ và người mang thai hộ phải được lập thành văn bản, có công chứng và tôn trọng sự thỏa thuận của cả 2 bên theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, có những quy định như quyền yêu cầu của người mang thai hộ về hỗ trợ và chăm sóc sức khỏe sinh sản trong quá trình mang thai và sinh con. Như vậy, việc thỏa thuận đó như thế nào để tránh tình trạng yêu sách hoặc thương mại hóa?
Cần biết khi mang thai hộ

Việc cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo chính thức có hiệu lực từ giữa tháng 3-2015. Những gia đình hiếm muộn sẽ có thêm hy vọng được làm cha, làm mẹ. Tuy nhiên, vẫn còn một số vướng mắc trong việc làm thế nào để thực hiện mang thai hộ hợp pháp, đúng ý nghĩa vì mục đích nhân đạo? Để rộng đường dư luận, SGGP thứ bảy có cuộc trao đổi với luật sư Nguyễn Văn Hậu (ảnh), Phó Chủ tịch Hội Luật gia TPHCM, xung quanh vấn đề này.

* Luật quy định thỏa thuận giữa người nhờ và người mang thai hộ phải được lập thành văn bản, có công chứng và tôn trọng sự thỏa thuận của cả 2 bên theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, có những quy định như quyền yêu cầu của người mang thai hộ về hỗ trợ và chăm sóc sức khỏe sinh sản trong quá trình mang thai và sinh con. Như vậy, việc thỏa thuận đó như thế nào để tránh tình trạng yêu sách hoặc thương mại hóa?

- Theo quy định tại Điều 96 Luật Hôn nhân Gia đình (HNGĐ) 2014, thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ phải được lập thành văn bản có công chứng, và bao gồm các nội dung cơ bản như: Thông tin đầy đủ về bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ, cam kết thực hiện các quyền, nghĩa vụ của các bên, việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa, hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và các quyền, nghĩa vụ khác có liên quan, trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận.

Ảnh minh họa

Để tránh tình trạng yêu sách hoặc thương mại hóa, có điều khoản hỗ trợ và chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong quá trình mang thai và sinh con. Trong việc thỏa thuận mang thai hộ giữa các bên nên ghi cụ thể mức hỗ trợ và điều kiện chăm sóc, để khi có phát sinh tranh chấp, các bên sẽ có căn cứ để giải quyết. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc hỗ trợ này không nhằm mục đích để người mang thai hộ được hưởng lợi về kinh tế, bởi trong trường hợp này việc mang thai hộ sẽ được xem là vì mục đích thương mại, hành vi bị pháp luật cấm.

* Để tránh tranh chấp sau khi con ra đời, người nhờ mang thai hộ nên làm gì? Người mang thai hộ phải có điều kiện nào mới được công nhận?

- Để tránh tranh chấp sau khi con ra đời, người nhờ mang thai hộ nên thỏa thuận cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mang thai hộ và trong thỏa thuận về việc mang thai hộ. Người mang thai hộ phải đáp ứng những điều kiện sau:

- Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ.

- Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần. Do đó, trong hồ sơ đề nghị cần phải có bản cam kết của người này là chưa mang thai hộ lần nào.

- Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ.

- Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng.

- Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.

* Luật sư có thể cho biết cụ thể về quyền lợi của người mang thai hộ? Chế độ thai sản đối với người mang thai hộ ra sao?

- Theo quy định tại Điều 97 Luật HNGĐ 2014 thì người mang thai hộ, chồng của người mang thai hộ có quyền, nghĩa vụ như cha mẹ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và chăm sóc, nuôi dưỡng con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ; phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ; người mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày. Việc sinh con do mang thai hộ không tính vào số con theo chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Bên mang thai hộ có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ thực hiện việc hỗ trợ, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai phù hợp với quy định của pháp luật về chăm sóc sức khỏe sinh sản và sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang thai hộ có quyền yêu cầu tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con.

* Luật quy định người mang thai hộ phải là họ hàng cùng hàng với người nhờ mang thai hộ. Tuy nhiên, quan hệ cùng họ hàng đó cụ thể trong giới hạn nào? Cơ quan nào có thẩm quyền xác nhận giá trị pháp lý trên?

- Theo hướng dẫn tại Nghị định số 10/2015/NĐ-CP thì người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ bao gồm: anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ. 

UBND cấp xã sẽ xác nhận hoặc do người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ tự mình chứng minh về mối quan hệ thân thích cùng hàng trên cơ sở các giấy tờ hộ tịch có liên quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của các giấy tờ này.

* Trường hợp người vợ có trứng không sử dụng được, nhưng tinh trùng người chồng vẫn tốt, hai vợ chồng thống nhất sẽ tìm người mang thai hộ. Tuy nhiên, nếu sử dụng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm sợ tốn kém nhiều chi phí, nên người vợ chấp nhận và quyết định cho chồng dùng phương pháp tự nhiên với người mang thai hộ. Như vậy, trường hợp mang thai hộ kể trên liệu có đúng luật?

- Theo quy định tại khoản 22 Điều 3 Luật HNGĐ, việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.

Như vậy, theo quy định trên thì việc mang thai hộ chỉ được coi là đúng luật khi cách thức thực hiện theo đúng quy định của pháp luật là việc thụ tinh phải được thực hiện trong ống nghiệm và phôi được tạo thành bởi noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng nhờ mang thai hộ, sau đó cấy phôi này vào tử cung của người tự nguyện mang thai hộ để người này mang thai và sinh con.

Còn việc người vợ chấp nhận cho người chồng dùng phương pháp tự nhiên với người mang thai hộ về bản chất đây không phải là mang thai hộ theo quy định nêu trên. Bởi trong trường hợp này con sinh ra sẽ không phải là con của vợ chồng mang thai hộ mà sẽ là con của người chồng với chính người mang thai hộ (vì lúc này noãn không phải là của người vợ nhờ mang thai hộ).

* Theo luật sư, những quy định này liệu có ngăn chặn được sự biến tướng từ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo sang đẻ thuê không?

- Thực tế có thể có biến tướng chuyển từ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo sang mang thai hộ vì mục đích thương mại nhưng với các quy định rõ ràng về mang thai hộ hiện hành (điều kiện mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ mang thai hộ) thì chúng ta có cơ chế để phân biệt, xử lý những trường hợp mang thai hộ vì mục đích thương mại.

Thiên Trang

Tin cùng chuyên mục