Nam mai

Từ những năm 1960, tôi đã nghe các cụ người Nam nhắc đến cây Nam mai với gò Cây Mai nổi tiếng như là loài mai đặc trưng của vùng đất miền Nam này, có cả tao đàn Bạch mai thi xã của các nhà thơ Gia Định. Theo óc tưởng tượng của tôi thì loài Nam mai thân to, bông màu trắng tỏa hương thơm, rất là quyến rũ thơ mộng. Tôi đã từng thấy loài mai chiếu thủy, bông màu trắng nhỏ tỏa hương thơm thường trồng thành chậu kiểng, nhưng tôi không bao giờ cho đó là cây Nam mai và tôi có ý tìm hiểu.

Nhà từ điển học tài năng người Nam bộ, ông Huỳnh Tịnh Của (Paulus Của) thì viết quá ít: “Mai, hai thứ cây lớn, thứ có bông thơm, thứ có quả chua”. Còn ông Paulus Của còn đề cập đến gò Cây Mai: “Một gò đất cao ở sau Chợ Lớn”. “Nam mai: cây mù u”. Ông còn viết “mù u: thứ cây lớn có nhiều u nhiều mắt, hột có nhiều dầu, đất này có nhiều (ý chỉ Nam bộ). Chữ (chữ Nho) gọi Nam mai” (Huỳnh Tịnh Paulus Của, Đại Nam quốc âm tự vị, các tr.6, 52). Tôi biết rất rõ cây mù u, bông trắng nhụy vàng, trái cho dầu thắp đèn rất phổ biến khi nước ta chưa có dầu lửa và đèn Hoa Kỳ, bông mù u lại không có mùi hương. Tôi nhất quyết mù u không phải là Nam mai.

Kỹ sư Vương Trung Hiếu viết sách “Kỹ thuật trồng và tạo giống cây mai”. Ông có công tìm ra 42 loài mai trên khắp thế giới. Về cây Nam mai, ông viết: “Mai mù u còn gọi là Nam mai, loài này phân bố rộng khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra người ta còn thấy chúng mọc rải rác ở vùng Thừa Thiên – Huế. Cái tên Nam mai xuất phát từ sự tích của vua Gia Long Nguyễn Ánh “sa cơ thất thế” tìm đường bôn tẩu. Tuy gọi là mai, song thực chất loài này chính là cây mù u, họ măng cụt. Hoa có 5 cánh giống như loài bạch mai. Trái tròn, to bằng ngón chân cái, ăn không được, ép ruột trái thành dầu thắp đèn”. (Vương Trung Hiếu, sđd, tr.55). Như vậy, theo ông Hiếu, Nam mai tức mai mù u, tức cây mù u.

Nhưng không dừng lại ở đó, ông Hiếu viết tiếp: “Bạch mai còn gọi là Bạch khê hay Mai khê. Đây là loài mai có bông trắng tinh giống như loài sứ trắng, hoa có 4 cánh dày, mùi thơm ngào ngạt và rất quý hiếm ở Việt Nam. Loài mai này gốc sần sùi, lá xanh bóng giống như cây mù u, song lá nhỏ hơn. Nó không có mủ như cây mù u. Theo các nhà nghiên cứu, ngày xưa Bạch mai mọc trong rừng núi Bà Đen, tỉnh Tây Ninh là nhiều nhất. Song ngày nay hình như không còn nữa. Trong chùa Giác Duyên thuộc địa phận Chợ Lớn, TP Hồ Chí Minh cũng có mai này. Ở lăng Mạc Cửu (Hà Tiên, Kiên Giang) cũng có Bạch mai, nhưng chẳng nơi nào có được một cây mai thân to như cây cổ thụ “trụ trì” trước sân đình Phú Tự xã Phú Hưng, tỉnh Bến Tre. Đây là cây mai to nhất, thọ nhất ở Việt Nam (trên 300 tuổi), được gọi là mai thần”.

Ông Hiếu trích bài của ông An San: “Mai thần chỉ trổ bông vào rằm tháng giêng, cũng tiết xuân, nhưng mà xuân muộn. Mai thần chỉ trổ một lần trong một năm…”.

Như vậy, cả hai vị đều cho Nam mai tức cây mù u. Ông Hiếu đã nói đến cây mai thần ở Bến Tre là một sự kiện hết sức kỳ thú. Nhưng dù nói khá nhiều về cây mai này, xung quanh cây mai thần vẫn bao phủ một màng sương bí ẩn.

Rồi đến một ngày cuối thu 2008, tôi theo bạn về Bến Tre, tôi được thăm cây mai thần nơi đình làng Phú Tự. Các vị bô lão địa phương cho biết khi nở, mai thần tỏa hương thơm ngào ngạt, đặc biệt đã có nhiều người bứng cây con về nhà trồng đều không kết quả. Tôi bỗng như được vị linh thần đình Phú Tự mách bảo, lóe sáng trong đầu câu nói “Mai thần chính là Nam mai”. Như có luồng sức mạnh thiêng liêng khiến tôi mạnh miệng khẳng định, với các bạn là tôi tin cây mai thần chính là cây Nam mai mà suốt 30 năm qua tôi đã cố công tìm hiểu.

Tôi lục tìm trong bản chữ Hán sách Gia Định thành thông chí của tác giả Trịnh Hoài Đức, nhà học giả sống vào đầu thế kỷ XIX ở Nam bộ, từng làm chức Hiệp (Phó) Tổng trấn Gia Định thành. Cụ Trịnh Hoài Đức viết bằng chữ Hán, tôi dịch ra Quốc ngữ:

“Cách cự trấn (thành Gia Định) mười ba dặm rưỡi về phía Nam, nổi lên một gò đất cao mọc nhiều cây Nam mai cổ thụ, đó là gò Cây Mai. Loài mai này khi bông nở không có tuyết, chỉ có lá hộ hương. Nam mai thụ linh khí mà mọc, không đem trồng nơi khác được. Trên gò có ngôi chùa Ân Tôn, đêm đêm cầu kinh, tiếng chuông trống vang rền thấu tận từng mây, tưởng như cảnh núi Linh Thứu nơi đất Phật. Suối nước trong xanh lượn quanh chân gò, gặp khi trời mát mẻ, chiều chiều các cô gái khua mái chèo hái sen. Gặp khi trời đẹp khí lành, văn nhân thi sĩ cắp theo bầu rượu leo từng bậc cấp lên tới đỉnh gò, ngồi dưới gốc mai già uống rượu ngâm thơ thưởng thức cảnh quan kỳ thú. Nơi đây quả thật là thắng địa thu hút khách du...”.

Cây mai thần đình Phú Tự, có bông trắng tinh giống như loài sứ trắng, hoa có 4 cánh dày, mùi thơm ngào ngạt và đặc biệt “không đem trồng nơi khác được”.

Người đầu tiên viết về cây Nam mai một cách chi tiết cách nay gần 200 năm là tác giả Trịnh Hoài Đức. Ông đã viết về cây Nam mai để rồi 50 năm sau, các nhà thơ đất Gia Định dùng làm biểu tượng cho thi xã của vùng đất địa linh nhân kiệt này. Vùng đất miền Nam có một loài mai đặc trưng, rất quý giá, hết sức độc đáo, xứng đáng được chúng ta tập trung bảo tồn. Chúng ta có thể xuất phát từ cây mai thần đình làng Phú Tự tỉnh Bến Tre và phải nhanh tay trước tình trạng xuống cấp của ngôi đình và cây mai thần.

Tháng 12 năm 2008. 

LÊ SƠN PHƯƠNG NGỌC
(VP Ủy ban Giải thưởng Trần Văn Giàu)

Tin cùng chuyên mục