Ngày 2 tháng 9 năm ấy...

Ngày 2 tháng 9 năm ấy...

Những người lớn hơn tôi hẳn có những kỷ niệm trọn vẹn về ngày 2 tháng 9 năm 1945. Lứa tuổi tôi chỉ hơi “ghé qua”. Năm 1945 tôi 6 tuổi, ký ức chỉ còn giữ được những hình ảnh thoáng qua, rời rạc. Nhưng những hình ảnh thoáng qua rời rạc đó lại có cái sâu đậm, sáng rõ riêng của nó.

Nhà tôi ở Thị Nghè, dưới dốc cầu, chú Út tôi thường dẫn tôi đi chơi qua lại trên cầu, qua Sở Thú gần đó. Tôi còn nhớ rất rõ cảnh một người lính Nhựt bắn chết người lính Pháp trên cầu, ngày Nhựt đảo chánh như sau này tôi biết. Tôi cũng nhớ cảnh bom nổ giữa Sài Gòn, chú Chín tôi chạy đi về báo bom nổ chỗ này chỗ nọ trong thành phố. Rồi Thanh niên Tiền phong lô nhô những tầm vông vạt nhọn. Tôi nhớ rõ lắm.

Sau này nhớ lại tôi lấy làm tự hào đã chứng kiến biến động lớn lịch sử đất nước, dù chỉ trong ký ức tuổi thơ. Chỉ như vậy thôi. Với những gia đình nghèo khổ, thợ mỏ phu phen, bần cố nông, có thể có những kỷ niệm về sự đổi đời, thoát ách nô lệ nào đó. Với gia đình tôi là hoàn toàn khác. Gia đình tôi thuộc loại trung lưu trí thức, ba tôi học trường Tây làm công chức cho Pháp, có nhà là một căn phố sang trọng.

Nhưng với chúng tôi vẫn có sự “đổi đời”, ấy là từ cuộc sống sung sướng ở thành phố bỏ tất cả vào chiến khu Đồng Tháp Mười sống nghèo nàn lam lũ. Nhưng đây là cái nghèo khác, nghèo của người đi kháng chiến, tự do, thanh bạch, có lý tưởng. Tôi bắt đầu hiểu độc lập là như thế, đất nước độc lập gắn liền với cách mạng kháng chiến, sống vì mọi người, xả thân vì sự nghiệp chống quân Pháp xâm lược.

Ngày 2 tháng 9 năm ấy... ảnh 1

“Chiến đấu giữ làng”, tranh sơn dầu của Trịnh Phòng.

Sau năm 45 đất nước được độc lập, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, ý nghĩa lớn lao đó in đậm nét thế hệ cha chú chúng tôi, và không thể không tác động tới chúng tôi.

Từ “độc lập” chúng tôi thường nghe trong các cuộc chuyện trò của người lớn. Các chú bác cũng thường xoa đầu chúng tôi nói: “Sướng nghen! Các cháu rồi sẽ sống trong một đất nước độc lập, chú bác đánh xong thằng giặc này, mọi chuyện sẽ xong”.

Có thể có phần hời hợt nông cạn trong ý nghĩ ấy. Nhưng thật trong sáng, hào hùng, thế hệ “mùa thu” “đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến” cha chú chúng tôi. Hồi đó thông qua ba tôi và các chú bác tôi, các bạn chiến đấu của ba tôi, tôi có ấn tượng rất sâu đậm về người trí thức đi theo cách mạng.

Tôi còn nhớ căn phố chúng tôi ở Sài Gòn, ba tôi là viên chức nhà nước Pháp, quần tay trắng áo sơ mi trắng hằng ngày đi làm trên xe kéo. Các bạn của ba tôi cũng vậy, đến nhà ngồi ở ghế xa lông uống rượu Tây hút thuốc phà khói nói chuyện công sở coi nhàn nhã sang trọng lắm.

Vậy rồi bỗng bỏ tất cả vào ở trong Đồng Tháp Mười, cũng vẫn những con người ấy cùng ba tôi ăn bận nâu sòng, quần áo bà ba vải bố chiếc gậy trong tay chiếc nóp trên lưng đi rong ruổi ngày đêm, chuyện vãn vui tươi như không hề có chuyện thay đổi gì cả.

Có một chi tiết tôi nhớ mãi: ở thắt lưng ba tôi và các bạn ba tôi bao giờ cũng có bọc hột giống. Hỏi, ba tôi nói để trồng dọc đường. “Mình trồng để cho dân mình ăn”. Trong sáng biết chừng nào thế hệ cách mạng “mùa thu” những năm ấy.

Sau nhà tôi là cánh đồng rộng, chiều chiều bọn trẻ chúng tôi đứng giăng hàng sau mí vườn đón chờ bộ đội đi ngang. “Bộ đội Hai Nhỏ”, tôi nhớ đúng tên người chỉ huy quân đội tỉnh Long An những năm ấy. Trời về chiều, hàng quân thành hàng dài đi băng qua đồng, Hai Nhỏ khăn rằn cột khấc đi dẫn đầu, thật ấn tượng. Chúng tôi lặng người trước cảnh ấy, không thể nói hết lòng ngưỡng mộ của chúng tôi.

Sau này tôi gặp lại người chỉ huy ấy trong kháng chiến chống Mỹ, trong cuộc họp quân sự tỉnh Long An, dưới sự chủ trì của chú Võ Trần Chí, trông nhỏ thó hiền lành. Vậy ra phần nào tôi trở thành người bạn chiến đấu của người chỉ huy đáng ngưỡng mộ năm xưa. Thật kỳ lạ hai cuộc kháng chiến của chúng ta.

Cách mạng, đổi đời, thế giới đại đồng, đó là cái gì quá sức hiểu biết của chúng tôi hồi đó. Với chúng tôi chỉ có con người cụ thể những sự việc cụ thể quanh tôi, gia đình cha mẹ, bà con chú bác, bạn bè chiến đấu của ba tôi.

Tôi và anh Hai tôi học trường tiểu học dành cho con em kháng chiến Khu 8, ở Tân Thiết. Ngoài các thầy cô giáo, các anh học lớp trên như anh Lê Bửu sau này là Tổng cục trưởng Tổng cục Thể thao, lòng ngưỡng mộ tôi dành cho các anh cơ quan bên kia sông.

Hai anh em tôi được ba mua cho chiếc xuồng nhỏ, cụt mũi, chúng tôi thường bơi qua đó gặp các anh, khâm phục nhìn các anh đàn hát, in những tập nhạc trên khuôn bột nếp, tôi tiếp làm được các anh cho tập nhạc, giữ kỷ nhiều năm về sau. Sau này tôi biết đó là phòng văn nghệ quân khu, có các nhạc sĩ Hoài Mai, Ngô Huỳnh…

Một trong những ấn tượng sâu đậm trong tôi những năm ấy, là một lần tôi dự lễ ngày 2 tháng 9, đâu khoảng năm 1947, 1948 gì đó. Một buổi chiều chúng tôi nghe các anh lớn trong trường nói tối nay có lễ lớn lắm ở dưới kia, thế là hai anh em tôi ăn cơm sớm thảy hai chiếc nóp thảy xuống xuồng bơi đi.

Không sợ bị lạc, không có đường bộ, dân cư vùng đó chỉ ở ven sông đi lại cũn chỉ trên sông. Chúng tôi bơi xuồng theo ven sông, nhà cửa thưa thớt, nhiều đoạn dài chỉ có lá dừa nước. Lâu lắm, ước chừng giữa khuya bỗng thấy trước mặt chỗ doi sông đèn đuốc sáng trưng, tiếng ồn ào dội lại.

Đang mệt chúng tôi thấy khoẻ hẳn ra, bơi riết đến, bến sông xuồng ghe đậu san sát chúng tôi rà dầm lại đậu cặp vào đi lên. Đó là một cánh đồng trống nhiều chỗ thấy có dấu ruộng lúa, đèn măng sông, đèn bão, đèn dầu chai đốt treo trên các cọc cây, người đi tới lui đông nghẹt, chỗ này diễn kịch, chỗ kia chiếu phim đèn chiếu, chỗ khác hát hò, tấu hài. Người lớn kể chuyện chiến đấu. Con nít múa hát.

Chúng tôi đi chen vào với mọi người, chỗ nào cũng muốn ghé muốn coi, có cảm tưởng tất cả dân chúng Đồng Tháp Mười tụ họp về đây. Không có gì vui hơn thế, rực rỡ huy hoàng hơn thế, thật tưng bừng lộng lẫy, nhiều người tụ họp đông vui, ai nấy đều hớn hở, gặp nhau tay bắt mặt mừng.

Nhiều chú bác quen biết ba tôi mua cho chúng tôi nắm xôi, củ khoai. Chúng tôi đi chơi mải miết, thật vui, thật sảng khoái, được ăn no bụng, đến gần sáng lật nóp ngủ ở một gò đất nào đó. Sáng hôm sau bơi xuồng về khoe cả mấy ngày với đám bạn học cùng lớp.

Năm 1975 từ chiến trường chống Mỹ ra Hà Nội, tôi gặp họa sĩ Huỳnh Văn Gấm, chú nói: “Tao là bạn ba mày, hồi nhỏ tao bồng mày hoài. Mày đi lễ 2 tháng 9 tao mua khoai cho mày ăn, nhớ không?”.

Hai thế hệ kháng chiến chống Pháp chống Mỹ nối tiếp nhau, truyền hào khí cho nhau. Những kỷ niệm cũng nối tiếp nhau. Tôi lớn lên trong kháng chiến chống Pháp, đi tiếp cuộc kháng chiến chống Mỹ, kẻ thù mạnh hơn gian ngoan ác độc hơn, bom đạn đầy trời hành quân chiến đấu liên tục, cuộc chiến không có nhiều thì giờ để suy nghĩ.

Nhưng đôi lúc rảnh rỗi, nằm lắc võng giữa rừng tôi vẫn nhớ về những ngày ấu thơ trong kháng chiến chống Pháp, về thế hệ cha chú ra đi “nóp với giáo mang ngang vai”, nhiều hình ảnh cũ sống lại, trong sáng đẹp đẽ, cao cả hào hùng, những hình ảnh kỷ niệm đó đã tiếp sức cho tôi rất nhiều trong những ngày tháng chiến đấu gian khổ.

LÊ VĂN THẢO

Tin cùng chuyên mục