Tham gia toạ đàm, về phía lãnh đạo TPHCM có ông Tăng Hữu Phong, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy TPHCM. Về phía lãnh đạo bộ, sở, ngành chuyên môn có bà Nguyễn Thúy Hiền, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước, Bộ Công thương; bà Nguyễn Thị Kim Ngọc, Phó Giám đốc Sở Công thương TPHCM; ông Lê Thanh Minh, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM; ông Phan Quốc Tuấn, Phó Trưởng phòng Quản lý Công nghệ, Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM; bà Ngô Nguyễn Ngọc Thanh, Phó Chi Cục trưởng Chi cục Bảo vệ Môi trường (Sở NN-MT) TPHCM.
Các chuyên gia tham dự có PGS-TS Ngô Trí Long, Chuyên gia Kinh tế, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu thị trường giá cả (Bộ Tài chính). PGS-TS Văn Đình Sơn Thọ, Đại học Bách khoa Hà Nội; TS Giang Chấn Tây, Giám đốc Công ty TNHH MTV Bội Ngọc. Về phía doanh nghiệp, hiệp hội, có sự tham dự của ông Nguyễn Xuân Thắng, Giám đốc Công ty TNHH Hải Âu Phát; ông Đặng Ngọc Sơn Ca, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Vận tải TPHCM; ông Bùi Ngọc Bảo, Chủ tịch Hiệp hội Xăng dầu Việt Nam; ông Nguyễn Viết Hồng, Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ Quyền lợi Người tiêu dùng TPHCM.
Đặc biệt, toạ đàm có sự đồng hành của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) và Tổng Công ty Dầu Việt Nam (PVOIL). Về phía đại diện PVOIL có ông Lê Trung Hưng, Phó Tổng Giám đốc.
Về phía Báo SGGP, có ông Nguyễn Khắc Văn, Quyền Tổng Biên tập; ông Phạm Văn Trường, Phó Tổng Biên tập; bà Bùi Thị Hồng Sương, Phó Tổng Biên tập.
Phát biểu đề dẫn tọa đàm, Quyền Tổng Biên tập Báo SGGP Nguyễn Khắc Văn thông tin, theo báo cáo của Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) công bố đầu năm 2024, nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng gần 1,45°C so với thời kỳ tiền công nghiệp; năm 2023 trở thành năm nóng nhất được ghi nhận trong lịch sử nhân loại. Riêng châu Á chứng kiến hơn 80 đợt thiên tai cực đoan, gây thiệt hại trên 65 tỷ USD. Những con số ấy không chỉ là cảnh báo, mà là lời nhắc nhở rằng mọi hành động ứng phó khí hậu không thể chậm trễ.
Tại Việt Nam, lượng phát thải từ tiêu dùng năng lượng năm 2023 ước đạt 275 triệu tấn CO₂, tăng gần 3% so với năm trước.
Để thực hiện cam kết phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, Chính phủ đã ban hành và triển khai hàng loạt quyết sách: Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, Quy hoạch điện VIII, lộ trình thị trường carbon, các chương trình tiết kiệm năng lượng, và những chính sách giảm dần nhiên liệu truyền thống trong giao thông vận tải. Một bước đi quan trọng là chủ trương phát triển và sử dụng xăng sinh học E10. Từ tháng 8-2025, Petrolimex và PVOIL đã thí điểm phân phối E10 tại TPHCM, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và Quảng Ngãi. Chỉ sau ba tháng, sản lượng E10 tại nhiều địa phương tăng 12 – 18%, cho thấy mức độ tin tưởng ngày càng cao của người tiêu dùng đối với nhiên liệu xanh. Xăng E10 giúp giảm 3 – 7% lượng phát thải CO₂, đồng thời thúc đẩy ngành sản xuất ethanol từ nông sản trong nước. Trên cơ sở kết quả đó, Bộ Công thương đã ban hành Thông tư 50/2025, quy định từ ngày 1-6-2026, toàn bộ xăng không chì trên thị trường phải được phối trộn thành xăng E10. Song song đó, Bộ Xây dựng đang hoàn thiện Tiêu chuẩn Việt Nam CAFC, đặt mục tiêu mức tiêu thụ nhiên liệu tối đa 4,83 lít/100km cho ô tô con từ năm 2030.
Ông Nguyễn Khắc Văn nhận định, những chính sách này cho thấy quyết tâm mạnh mẽ trong xây dựng nền giao thông xanh, tiết kiệm và thân thiện môi trường. “Chúng ta không thể chờ đợi hoàn hảo mới hành động; nhưng hành động phải có trách nhiệm, minh bạch trong thông tin, khoa học trong đánh giá và công bằng trong chia sẻ lợi ích. Báo SGGP sẽ tiếp tục đồng hành, phản biện và góp tiếng nói để quá trình chuyển đổi năng lượng diễn ra nhanh nhưng bền vững”, ông Nguyễn Khắc Văn cho hay.
Chia sẻ tại tọa đàm, PGS.TS Ngô Trí Long, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu thị trường giá cả (Bộ Tài chính) nhấn mạnh, việc sử dụng xăng E 10 sẽ giải quyết được một lần ba bài toán: gia cố an ninh năng lượng thông qua thay thế nhập khẩu; tạo giá trị kinh tế tuần hoàn nhờ kết nối nông nghiệp – công nghiệp chế biến và giảm phát thải phù hợp các cam kết khí hậu.
Theo ông Ngô Trí Long, giữa biến động giá năng lượng toàn cầu, Việt Nam cần một giải pháp vừa giảm phụ thuộc nhập khẩu xăng dầu, vừa cải thiện môi trường theo lộ trình Net Zero 2050. Xăng E10 (pha 10% ethanol sinh học với 90% xăng khoáng) đáp ứng đồng thời hai mục tiêu này.
Cụ thể, giảm phát thải vòng đời: E10 giúp cắt giảm khoảng 3–7% CO₂, góp phần thực hiện cam kết phát thải ròng bằng “0”. Hạn chế khí độc, làm không khí sạch hơn phù hợp mục tiêu Net zero. Giảm nhập khẩu xăng dầu. Nếu sử dụng rộng rãi, E10 ước có thể thay thế tương đương khoảng 1 triệu tấn xăng dầu/năm, tăng chủ động về an ninh năng lượng.
Ngoài ra, xăng E10 sẽ kích hoạt kinh tế tuần hoàn nông nghiệp: Tận dụng sắn, ngô, mía làm nguyên liệu ethanol, gia tăng giá trị nông sản, tạo đầu ra ổn định cho nông dân và doanh nghiệp chế biến, lan tỏa lợi ích giữa nông nghiệp – công nghiệp – môi trường.
Cũng theo ông Long, hiện thế giới có khoảng 60 quốc gia đã sử dụng xăng E10. Như tại Hoa Kỳ, E10 đã trở thành chuẩn phổ thông; hầu như toàn bộ xe bán ra đều sử dụng được E10. PGS.TS Ngô Trí Long nhận định thời điểm này E10 đang có nhiều cơ hội trở thành loại xăng phổ biến nhất Việt Nam. Lý do đầu tiên là bởi khung pháp lý đã rõ ràng. Theo đó, từ ngày 1-6-2026, xăng không chì (theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia hiện hành) phải phối trộn, pha chế thành xăng E10 để sử dụng cho động cơ xăng trên toàn quốc. Đây là bước chuyển có ý nghĩa chiến lược, từ chính sách “khuyến khích” sang “chuẩn hóa bắt buộc”, tạo nền tảng pháp lý và niềm tin thị trường để các chủ thể trong chuỗi giá trị (phối trộn, logistics, bán lẻ, kỹ thuật) có cơ sở đầu tư lâu dài.
Về năng lực hạ tầng, các doanh nghiệp đầu mối lớn như Petrolimex, PVOIL, BSR, Sài Gòn Petro đã khẳng định đủ khả năng phối trộn và cung ứng E10 trên phạm vi toàn quốc – điều kiện cần và đủ để chuyển sang chuẩn nhiên liệu mới.
Tuy nhiên, để xăng E 10 thực sự được người tiêu dùng đón nhận cần những chính sách “ưu tiên người tiêu dùng”. Như việc giữ chênh lệch đủ hấp dẫn để người tiêu dùng chọn E10. Theo đó, trong 6 tháng đầu năm 2026, khi song hành sử dụng Xăng khoáng A95 và E10, luôn duy trì “khoảng chênh mục tiêu” 1.000–1.500 đồng/lít so với xăng khoáng tương đương, để lợi ích nhìn thấy ngay trên hóa đơn.
Ngoài ra cần phủ rộng E10 ở tất cả cửa hàng bán lẻ đủ điều kiện; quy định tỷ lệ tối thiểu trụ bơm E10 tại mỗi trạm. Nên phát hành “Sổ tay E10” quốc gia: danh sách model/đời xe tương thích, cách bảo quản khi để xe lâu, hướng dẫn theo mùa/địa hình.
Theo PGS.TS Ngô Trí Long, cần rút kinh nghiệm E5 tránh nửa vời. “Giai đoạn 2015–2019, E5 tăng mạnh khi thay RON92, nhưng sau đó suy giảm. E10 bắt buộc, triển khai đồng bộ và “ưu tiên người dùng” là chìa khóa để E10 thực sự trở thành loại xăng tiêu chuẩn, vừa thuận tiện vừa bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, ông Long nhấn mạnh.
Dưới góc nhìn của TS. Giang Chấn Tây, Giám đốc Công ty TNHH MTV Bội Ngọc, E10 là phép thử tư duy năng lượng quốc gia, thể hiện bước chuyển từ “tiêu thụ năng lượng” sang “tạo dựng năng lượng”. E10 mang giá trị của chuỗi kinh tế nông nghiệp - công nghiệp - môi trường, là bước đi trong lộ trình phát triển nhiên liệu xanh và thực hiện cam kết bảo vệ môi trường. “E10 chỉ thật sự xanh khi ethanol được sản xuất trong nước, gắn với nông nghiệp và người nông dân. Nếu phải nhập khẩu ethanol, E10 chỉ là xăng khoáng đội mũ xanh”, TS. Giang Chấn Tây nói.
Theo phân tích của TS. Giang Chấn Tây, tỷ lệ hao hụt của E10 trong điều kiện nhiệt đới ẩm của Việt Nam rất cao. Ethanol có tính hút ẩm mạnh, dễ bay hơi, đặc biệt tại các cửa hàng bán lẻ ở vùng nắng nóng. Khi nhiệt độ môi trường tăng, E10 dễ tách lớp, gây hao hụt thể tích, có khi đến 0,25–0,4% mỗi m³/tháng. Trong khi đó, định mức hao hụt cho phép hiện hành chưa cập nhật phù hợp với E10, dẫn đến khi áp dụng doanh nghiệp chắc chắn chịu lỗ trực tiếp trong quá trình kinh doanh. Điều này giải thích vì sao nhiều cửa hàng ngại nhập E5/E10, dù chủ trương rất đúng, vì mỗi lít bán ra có thể phải “chịu hao” từ vốn của chính họ.
“Nếu chúng ta thực sự muốn xăng E10 tồn tại và phát triển bền vững, thì phải nhìn thẳng vào sự thật: khi xăng khoáng vẫn còn song song trên thị trường, người tiêu dùng còn có lựa chọn khác theo thói quen, thì E10 sẽ luôn ở thế yếu và dần dần bị loại khỏi thị trường. Không người tiêu dùng nào tự chọn một loại xăng mà họ cho rằng “rủi ro cao hơn, giá lại tương đương”. Vì vậy, nếu đã xác định chuyển sang năng lượng sinh học, thì nên có lộ trình, truyền thông và giải pháp rõ ràng, loại bỏ xăng khoáng truyền thống, giống như nhiều quốc gia đã làm (Indonesia, Thái Lan…). Chỉ khi thị trường được tái cấu trúc đúng hướng nhiên liệu xanh hoàn toàn (loại bỏ xăng khoáng), E10 mới có cơ hội sống thật sự”, TS. Giang Chấn Tây thẳng thắn nói.
Do đó, tại tọa đàm, TS Giang Chấn Tây cũng đề xuất một số giải pháp kiến nghị Bộ Công thương như: Điều chỉnh định mức hao hụt riêng cho E10, phù hợp với tính chất bay hơi và điều kiện khí hậu Việt Nam; Xây dựng lại giá cơ sở: có cơ chế tính đến bù chi phí hao hụt cho doanh nghiệp bán lẻ, chi thông qua chiết khấu hoặc hoa hồng - tương tự như cách tính lợi nhuận định mức, nhưng ở đây là bù hao hụt thực tế. Chỉ khi người bán lẻ yên tâm về chi phí hao hụt, họ mới dám nhận hàng về bán.
Ngoài ra, TS. Giang Chấn Tây cũng kiến nghị Bộ Công Thương trình Chính phủ cho phép triển khai giai đoạn thử nghiệm mở rộng trong khu vực công, kéo dài đến 6-2026. Mục tiêu là để đánh giá thực tế mức độ hao hụt để đưa ra chính sách hỗ trợ; đánh giá độ an toàn và hiệu quả của xăng E10; ghi nhận phản hồi người sử dụng về chất lượng; xây dựng chính sách giá. Đồng thời, đưa ra chính sách hỗ trợ doanh nghiệp bán lẻ hợp lý.
Nhiên liệu Euro 5 - giảm phát thải, chuyển đổi xanh
Tại buổi tọa đàm, PGS.TS Văn Đình Sơn Thọ, Đại học Bách khoa Hà Nội thông tin, Việt Nam là quốc gia đang phát triển, do đó nhu cầu sử dụng năng lượng luôn gia tăng kèm với đó là phát thải KNK và các khí ô nhiễm. Năm 2023, Việt Nam có mức phát thải là 3.39 tấn CO2/người nhưng vẫn thấp hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Các quốc gia phát triển vẫn phát thải KNK, tuy nhiên các khí ô nhiễm phải được kiểm soát. Bối cảnh tại Việt Nam, khi kinh tế càng phát triển sẽ càng sử dụng nhiều năng lượng nhưng cần hạn chế các khí thải gây ô nhiễm đến môi trường không khí và sức khỏe con người.
Tại TPHCM, mức tiêu thụ khoảng 7.000 m3 xăng dầu/ngày (2,5 triệu tấn xăng dầu/năm) để cung cấp nhiên liệu cho 8,5 triệu xe máy, 1 triệu ôtô các loại, 2.200 xe buýt, 13.300 taxi... đang tạo ra nhiều khí ô nhiễm. Theo số liệu năm 2019 của Roy.S phát thải khí ô nhiễm do GTVT tại TPHCM: CO là 429.000 tấn, 146.000 tấn HC, 70.000 tấn NOx, PM là 18.000 tấn và SO2 là 1000 tấn. Trong đó CO và HC là sản phẩm chính trong khói thải của động cơ sử dụng xăng, NOx, PM là sản phẩm chính trong khói thải của động cơ diesel và SO2 là sản phẩm cháy nhiên liệu có S.
Để khắc phục ô nhiễm, Chính phủ đã ra nhiều nghị định, thông tư và các chương trình hành động về chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí cacbon và khí metan của ngành giao thông vận tải. Trong đó, có thông tư 50/2025/TT-BCT của Bộ Công Thương, quy định lộ trình áp dụng tỷ lệ phối trộn nhiên liệu sinh học (bắt buộc sử dụng xăng sinh học E10 toàn quốc từ ngày 1-6-2026). Bên cạnh đó, UBND TPHCM đã ban hành công văn 2846 khẩn trương thực hiện biện pháp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm môi trường trên địa bàn TPHCM.
PGS.TS Văn Đình Sơn Thọ cho biết, theo thống kê số liệu tiêu thụ nhiên liệu các chuẩn khác nhau trong 4 năm tại Việt Nam và tính toán phát thải KNK và SO2 ô nhiễm cho năm 2021-2024. Trên cơ sở 2,5 triệu tấn xăng dầu tiêu thụ tại TPHCM, giả sử 1 triệu tấn xăng cho xe máy hoặc 1 triệu tấn dầu với kịch bản thay thế nhiên liệu mức 3 lên mức 5 thì mức độ giảm thiểu khí phát thải SO2,…
Theo nghiên cứu, nếu đưa E10 áp dụng theo Thông tư 50/2025/TT-BCT, sẽ giúp thay đổi CO giảm 17%, HC giảm 16%, NOx tăng 17%. Đồng thời, mức độ giảm thiểu khí ô nhiễm khi sử dụng 1 triệu tấn E10 cho các động cơ đạt mức khí thải Euro.
“Nếu đưa E10 theo lộ trình tại Thông tư 50 sẽ mang lại lợi ích về môi trường về giảm CO2 và các khí ô nhiễm khác. Tuy nhiên, giá xăng E10 cao hơn giá xăng khác. Ngoài ra, cần đồng bộ hóa động cơ để giảm khí phát thải”, PGS. TS Văn Đình Sơn Thọ cho hay.
Mở đầu phiên thảo luận, ông Phạm Văn Trường, Phó Tổng Biên tập Báo SGGP nhấn mạnh, Thông tư 50 (ngày 7-11) của Bộ Công thương quy định từ 1-6-2026, xăng E10 sẽ sử dụng bắt buộc trên toàn quốc, thay thế cho xăng khoáng, đánh dấu bước chuyển từ chính sách khuyến khích sang bắt buộc. Việc này không chỉ là thay đổi kỹ thuật pha trộn mà còn là năng lực điều phối của bộ: từ quản lý nguồn nguyên liệu ethanol, kiểm soát giá cả, đến việc doanh nghiệp phải đảm bảo nguồn cung ứng. Từ thông tin này, ông Phạm Văn Trường đã câu hỏi đối với bà Nguyễn Thuý Hiền, Phó Cục trưởng Cục quản lý và Phát triển thị trường trong nước, Bộ Công thương: “Vậy cơ chế giám sát, phối hợp liên ngành và chính sách hỗ trợ nào sẽ được áp dụng để đảm bảo E10 thực sự vận hành hiệu quả, bền vững và không tạo rủi ro cho an ninh năng lượng hay niềm tin thị trường?”.
Về vấn đề này, bà Nguyễn Thúy Hiền cho biết, khi Thông tư 50 ban hành thì Bộ Công thương cũng đã gấp rút ban hành kế hoạch truyền thông, toạ đàm của Báo SGGP đã tiên phong hỗ trợ truyền thông, cung cấp góc nhìn toàn diện về xăng E10.
Theo thông tư, đối với các DN có cơ sở vật chất, hạ tầng hoàn thiện có thể chuyển đổi từ ngày 1-6-2026. Để thực hiện thành công Thông tư 50, Bộ Công thương cho rằng cần có sự chỉ đạo của Chính phủ và sự vào cuộc quyết liệt của các đơn vị liên quan. Bộ Công thương đã trình Chính phủ ban hành thông tư hướng dẫn kỹ thuật phối trộn. Trong đó, Bộ Công thương đóng vai trò chủ trì trong việc hướng dẫn DN bảo đảm nguồn cung xăng dầu khi triển khai, hỗ trợ DN tính giá, các dự án đầu tư phát triển năng lượng…
Ngoài ra, bà Nguyễn Thúy Hiền cũng thông tin thêm, Bộ Công thương cũng đã đề xuất các bộ, ngành có liên quan như Bộ KH-CN, Bộ NN-MT, Bộ TT-TT hoàn thiện bộ quy chuẩn xăng E5 và E10 để các DN làm đúng; cách tính thuế môi trường; rà soát, hướng dẫn nông dân xây dựng vùng trồng; tuyên truyền để người dân sử dụng xăng E10… “Sự vào cuộc của các sở, ngành, sự đồng thuận của người dân thì xăng E10 sẽ đến gần hơn với người tiêu dùng”, bà Hiền khẳng định.
Tại phiên thảo luận, ông Lê Thanh Minh, Phó Giám đốc Sở KH-CN TPHCM gửi lời cảm ơn tới Báo SGGP đã tổ chức buổi tọa đàm hôm nay để truyền thông điệp sử dụng xăng sinh học E10. Theo ông Minh, TPHCM là địa bàn đông dân nhất tới thời điểm này, khoảng 14 triệu dân, với khoảng 10 triệu phương tiện giao thông nên việc sử dụng xăng E10 sẽ là giải pháp mang lại nhiều lợi ích. Về phía Sở KH-CN TPHCM, ông Minh cho biết sở sẽ phối hợp cùng các sở ngành như Sở Công thương để kiểm soát chất lượng xăng sinh học nhằm đảm bảo an toàn và chất lượng tốt nhất đến tay người tiêu dùng.
Ngoài ra, sở cũng tích cực đóng góp ý kiến kỹ thuật, phối hợp cùng các trung tâm nghiên cứu như các trường đại học, các viện nghiên cứu để nghiên cứu công nghệ mới trong quá trình sản xuất ethanol nhằm đảm bảo nguyên liệu cho xăng sinh học. Đáng chú ý, sở sẽ phối hợp cùng các nhà khoa học, các đơn vị truyền thông để đẩy mạnh truyền thông đến người tiêu dùng để người tiêu dùng hiểu đúng và an tâm sử dụng xăng E10.
Tại phiên thảo luận, bà Nguyễn Thúy Hiền cũng đặt câu hỏi đối với PGS.TS Văn Đình Sơn Thọ, Đại học Bách khoa Hà Nội. “Theo ông, làm thế nào để bảo đảm chất lượng nhiên liệu, tính tương thích phương tiện, giảm lo ngại kỹ thuật?”.
Về vấn đề này, PSG.TS Văn Đình Sơn Thọ thông tin ngắn gọn, TPHCM hiện có 8,5 triệu phương tiện xe máy. Để đưa chính sách bắt buộc sử dụng xăng E10 thì cần phải có một cuộc rà soát, kiểm kê để phân loại rõ có bao nhiêu phương tiện tương thích với xăng E5, bao nhiêu phương tiện tương thích với xăng E10, bao nhiêu phương tiện không phù hợp… Từ đó có phương án chuyển đổi.
Liên quan đến tính tương thích của động cơ khi sử dụng xăng E10, bà Nguyễn Thúy Hiền cho rằng, chúng ta đã sử dụng xăng E5 từ lâu. Trong quá trình sử dụng, chúng tôi chưa nhận được phản ánh của người tiêu dùng về việc sử dụng xăng E5 không tương thích với các động cơ. Tuy nhiên chỉ thỉnh thoảng có vụ cháy nổ nhưng cũng chưa xác định rõ nguyên nhân thật sự có phải xăng E5 hay không. “Chúng tôi cho rằng không có vấn đề lớn về tương thích với động cơ khi sử dụng loại xăng này. Ngoài ra, trong Thông tư 50 cũng nêu rõ, trong quá trình sử dụng E10, nếu có vấn đề xảy ra, sẽ được đánh giá ngay và có những quyết định phù hợp”, bà Hiền chia sẻ.
Tại phiên thảo luận thứ hai, các DN đã chia sẻ về những vấn đề phân phối, chuẩn bị cơ sở hạ tầng để thực hiện chuyển đổi xăng E10. Ông Lê Trung Hưng, Phó Tổng Giám đốc PVOIL cho biết, ngay sau khi có chỉ đạo của Bộ Công thương, PVOIL đã khẩn trương xây dựng và triển khai kế hoạch nâng cấp hệ thống pha chế xăng E10 trên nền tảng các cơ sở pha chế E5 hiện có. Công tác đầu tư, hoán cải bồn bể, thiết bị và hệ thống điều khiển tự động đang được thực hiện đồng loạt tại các kho xăng dầu trên toàn quốc, dự kiến hoàn thành trước ngày 31-12-2025, đảm bảo sẵn sàng pha chế xăng E10 trên toàn hệ thống.
PVOIL cũng là DN tiên phong khi triển khai thí điểm kinh doanh E10 từ tháng 8-2025 tại miền Bắc và miền Trung. Với định hướng dài hạn, PVOIL coi nhiên liệu sinh học là giải pháp chiến lược nhằm giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch. Trong giai đoạn thí điểm, PVOIL đã xây dựng các cơ sở phối trộn ethanol với xăng RON95, đưa E10 vào hệ thống bán lẻ trực thuộc. Kết quả cho thấy, người dân dần chấp nhận khi được thông tin rõ ràng về an toàn và lợi ích môi trường. Hiện PVOIL quản lý gần 1.000 cửa hàng cùng hệ thống kho cảng, trung tâm phối trộn trải dài toàn quốc, được nâng cấp đồng bộ từ bồn chứa đến hệ thống điều khiển.
PVOIL không chỉ đáp ứng nhu cầu của mình mà còn sẵn sàng gia công, cung ứng E10 cho các doanh nghiệp đầu mối khác, khẳng định vai trò quan trọng trong bảo đảm nguồn cung nhiên liệu sinh học. Ông Hưng cho biết thêm, hiện nay, PVOIL có 12 cơ sở pha chế xăng sinh học vận hành ổn định trên khắp cả nước. Không chỉ đáp ứng nhu cầu nội bộ, PVOIL còn có khả năng gia công pha chế thêm cho các đầu mối khác, khẳng định năng lực và uy tín của mình trong lĩnh vực pha chế nhiên liệu sinh học. Về nguồn cung ethanol - nguyên liệu chính để pha chế xăng sinh học, ông Hưng cho biết, PVOIL luôn duy trì liên kết chặt chẽ với các nhà máy ethanol trong nước để đảm bảo khoảng 50% nhu cầu nội địa, phần còn lại được nhập khẩu từ các thị trường uy tín như Mỹ, Brazil và Thái Lan.
Nhờ đó, nguồn cung ethanol luôn ổn định, chất lượng cao và chi phí hợp lý, tạo nền tảng vững chắc cho quá trình sản xuất E10. Ngoài ra, mạng lưới phân phối của PVOIL cũng rộng khắp cả nước. “Từ sự chuẩn bị bài bản, đồng bộ và sớm hơn lộ trình, PVOIL đã sẵn sàng đồng hành cùng Chính phủ trong việc thực hiện lộ trình nhiên liệu sinh học mới, góp phần giảm phát thải, bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển bền vững của ngành năng lượng”, ông Hưng cam kết.
Theo ông Bùi Ngọc Bảo, Chủ tịch Hiệp hội Xăng dầu Việt Nam, điều quan trọng cần phải truyền thông rõ ràng đến người tiêu dùng chính là xăng sinh học E5 hay E10 cũng đều phải đảm bảo các quy chuẩn kỹ thuật. Một số ý kiến cho rằng việc chạy xăng sinh học ethanol khiến máy bị nóng hơn, điều này cũng là do tính chất khác biệt của xăng sinh học và trong điều kiện kỹ thuật cho phép.
Cũng theo ông Bảo, một số chuyên gia đánh giá việc kinh doanh xăng sinh học E5 trước đây không thành công khi sản lượng bán có xu hướng giảm. Tuy nhiên điều này không hoàn toàn chính xác bởi thông thường một sản phẩm sẽ có vòng đời từ 5-7 năm, sau đó người tiêu dùng sẽ có xu hướng chuyển đổi sang các dòng sản phẩm khác chất lượng tốt hơn. Và theo xu hướng hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã chuyển sang sử dụng xăng sinh học E10 và Việt Nam cũng đi theo đúng xu hướng chung.
Về tình hình ô nhiễm không khí từ phát thải tại TPHCM, bà Ngô Nguyễn Ngọc Thanh, Phó Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ Môi trường (Sở NN-MT TPHCM) cho hay, theo kết quả quan trắc chất lượng môi trường không khí cho thấy ô nhiễm không khí tại TPHCM chủ yếu liên quan đến bụi. Một số thời điểm nồng độ bụi tổng (TSP) và bụi mịn tại các vị trí có mật độ giao thông cao, vượt ngưỡng cho phép từ 1,5 – 2 lần và tỷ lệ vượt chuẩn nhỏ hơn 10%, các thông số ô nhiễm khác đều trong ngưỡng cho phép. Chất lượng không khí có sự biến đổi theo thời gian trong ngày và có xu hướng biến đổi theo mùa trong năm; mức độ ô nhiễm vào mùa khô cao hơn mùa mưa, nồng độ PM2.5 trong không khí có xu hướng đạt mức cao nhất trong khoảng thời gian cuối và đầu năm… Cụ thể, các nguồn gây ô nhiễm môi trường không khí chính tại TPHCM được xác định do hoạt động giao thông vận tải; hoạt động sản xuất công nghiệp, xây dựng… Trong đó, giao thông đường bộ được xác định là nguồn gây ô nhiễm không khí chính tại TPHCM, đặc biệt là tại khu vực đô thị.
Cũng theo bà Thanh, hiện nay Sở NN-MT TPHCM đã xây dựng kế hoạch hành động về khắc phục ô nhiễm và quản lý chất lượng môi trường không khí giai đoạn 2026-2030 tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, Thành phố sẽ sớm ban hành Kế hoạch triển khai, xác định tập trung nguồn lực triển khai quyết liệt, đồng bộ và hiệu quả các giải pháp từ chính sách quản lý, quy hoạch, kỹ thuật và truyền thông với sự tham gia của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Kế hoạch này không chỉ tập trung lĩnh vực giao thông mà tất cả các ngành, các lĩnh vực liên quan (nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, xử lý chất thải, vệ sinh đường phố) nhằm giảm ô nhiễm môi trường không khí, đảm bảo chất lượng không khí ở mức an toàn cho sức khỏe.
“Kiểm soát ô nhiễm, đặc biệt là ô nhiễm không khí là thách thức lớn của Thành phố. Mặc dù phần lớn giá trị quan trắc hiện nay đạt quy chuẩn môi trường Việt Nam, tuy nhiên thành phố xác định ô nhiễm không khí là vấn đề cấp bách cần giải quyết, khắc phục nhằm đảm bảo chất lượng môi trường sống vì sức khỏe nhân dân thành phố. TPHCM cam kết kịp thời tập trung nguồn lực, sự tham gia của cả hệ thống chính trị nhằm thực hiện hiệu quả để cải thiện chất lượng không khí”, bà Thanh chia sẻ.
Thông tin từ Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) cho biết, hiện nay, Petrolimex đang vận hành mạng lưới hơn 5.500 cửa hàng bán lẻ trực thuộc và gần 3.000 đại lý, tổng đại lý trải khắp cả nước. Đây là kênh phân phối rộng lớn, có khả năng đưa xăng sinh học E10 tiếp cận người tiêu dùng nhanh chóng và đồng bộ. Bên cạnh đó, hệ thống kho cảng, tuyến ống và các nhà máy pha chế hiện hữu của Petrolimex được đầu tư bài bản, có thể linh hoạt triển khai phối trộn ethanol với xăng khoáng để sản xuất E10 với quy mô lớn, bảo đảm chất lượng theo tiêu chuẩn Việt Nam và phù hợp yêu cầu khí thải Euro 5.
Về nguồn nguyên liệu ethanol, Việt Nam hiện có một số nhà máy sản xuất ethanol nhiên liệu với tổng công suất thiết kế trên 500 triệu lít/năm, đủ để đáp ứng khoảng 70% nhu cầu phối trộn E10 trong giai đoạn đầu. Tuy nhiên, để bảo đảm nguồn cung ổn định, đặc biệt khi nhu cầu tiêu thụ gia tăng mạnh từ năm 2026, Petrolimex đã tính toán phương án nhập khẩu bổ sung. Trong đó, Hoa Kỳ, quốc gia sản xuất ethanol lớn nhất thế giới từ bắp, là nguồn cung tiềm năng với lợi thế chi phí và chính sách thuế nhập khẩu giảm từ 10% xuống 5% theo quyết định gần đây. Brazil – quốc gia sản xuất ethanol chủ yếu từ mía đường, cũng là đối tác giàu kinh nghiệm, có sản lượng ổn định, sẵn sàng cung ứng cho thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, Ấn Độ, nơi đang thúc đẩy mạnh mẽ chương trình pha trộn ethanol cũng có thể trở thành nguồn cung bổ sung quan trọng trong tương lai.
Trên phương diện kỹ thuật, Petrolimex đã hoàn tất các nghiên cứu thử nghiệm về tính tương thích của xăng E10 đối với phương tiện cơ giới, kết quả cho thấy E10 phù hợp với hầu hết động cơ xăng đang lưu hành, đồng thời góp phần giảm phát thải CO, HC và các khí độc hại khác từ 3% – 7%. Hệ thống phối trộn hiện đại của tập đoàn tại các kho đầu mối ở Hải Phòng, Đà Nẵng, TPHCM và Cần Thơ có thể sản xuất E10 theo yêu cầu, với năng lực đáp ứng 100% nhu cầu tiêu thụ của thị trường cả nước ngay từ giai đoạn đầu.
“Petrolimex đánh giá, việc triển khai đồng bộ xăng E10 sẽ mang lại nhiều lợi ích. Một mặt, giúp giảm dần sự phụ thuộc vào xăng khoáng truyền thống, tăng cường tiêu thụ ethanol nội địa, hỗ trợ phát triển ngành nông nghiệp trồng sắn, mía đường và tạo thêm việc làm cho người lao động. Mặt khác, E10 góp phần giảm thiểu ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn, qua đó cải thiện sức khỏe cộng đồng và nâng cao chất lượng môi trường sống. Quan trọng hơn, việc cung ứng E10 đại trà còn thể hiện trách nhiệm tiên phong của Petrolimex trong việc đồng hành cùng Chính phủ hiện thực hóa mục tiêu phát triển kinh tế xanh và bền vững”, đại diện Petrolimex cho biết.
Bà Nguyễn Thị Kim Ngọc, Phó Giám đốc Sở Công thương TPHCM nhấn mạnh, hội thảo hôm nay của Báo SGGP có rất nhiều thông tin hữu ích về kỹ thuật và cả tuyên truyền trong quá trình triển khai xăng sinh học E10. Bà Ngọc cho rằng thời điểm này được đánh giá là “chín muồi” để triển khai xăng sinh học E10 bởi cả nước đang bước vào quá trình chuyển đổi xanh mạnh mẽ. Việc sử dụng xăng sinh học nhằm giảm phát thải gây ô nhiễm môi trường là rất cần thiết.
Ngoài ra, cơ sở pháp lý cũng đã đẩy đủ cho triển khai xăng E10 ra thị trường. Về phía TPHCM, bà Ngọc cho biết các sở ngành, các doanh nghiệp đã có sự chuẩn bị sẵn sàng cho việc triển khai đồng loạt sản phẩm xăng sinh học E10. Công việc sắp tới sẽ là đẩy mạnh truyền thông để người tiêu dùng hiểu và sử dụng.
Ông Vũ Văn Thủy, Trưởng Cơ quan đại diện Văn phòng Bộ NN-MT tại phía Nam cho biết, đối với ngành NN-MT, thực hiện việc chuyển đổi xanh sang xăng E10, bộ đã phối hợp với các địa phương đưa ra kế hoạch sử dụng đất để tạo ra những vùng trồng, nguồn trồng… Đồng thời phối hợp với các nhà khoa học tạo ra các sản phẩm chất lượng tốt hơn, cao hơn; giúp người nông dân bảo đảm tốt vùng nguyên liệu cho sản phẩm xăng E10; giúp nhà sản xuất tiếp cận được nguồn nguyên liệu chất lượng. Ngoài ra, Bộ NN-MT cũng tư vấn cho Chính phủ đưa ra các chính sách, hành lang pháp lý, quy chuẩn… về môi trường đối với xăng E10.
Phát biểu tại phiên tham luận, ông Nguyễn Viết Hồng, Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ Quyền lợi Người tiêu dùng TPHCM đã chỉ ra 3 vấn đề lớn mà người tiêu dùng quan tâm. Thứ nhất là xăng E10 khác với xăng khoáng như thế nào, sử dụng xăng E10 có lợi ích gì? Thứ hai là cơ quan chức năng có chính sách gì hỗ trợ người tiêu dùng trong việc chuyển đổi phương tiện, từ đó khuyến khích người tiêu dùng sử dung xăng E10? Vấn đề cuối cùng, người tiêu dùng hiện nay rất muốn được cơ quan chức năng thông tin rõ ràng và cụ thể việc xe điện, xe xăng, phương tiện nào ưu tiên, phương tiện nào không được sử dụng để người tiêu dùng có lựa chọn phương tiện phù hợp hoặc giải pháp chuyển đổi đúng đắn, tiết kiệm?
Từ 3 vấn đề đó, ông Nguyễn Viết Hồng cho rằng cơ quan chức năng cần có các biện pháp tuyên truyền cụ thể, các chính sách rõ ràng để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bởi họ chính là những người cuối cùng thực hiện chính sách chuyển đổi xăng E10 và là người mua, sử dụng sản phẩm cho DN.
Để thúc đẩy tiêu dùng xăng E10, theo ông Nguyễn Xuân Thắng, Giám đốc Công ty TNHH Hải Âu Phát, nhà nước cần đưa ra lộ trình áp dụng xăng sinh học E10 từ 1 đến 5 năm. Cụ thể, ở năm 2026 chỉ áp dụng tỷ lệ kinh doanh xăng E10 từ 20-25%, giai đoạn này chủ yếu chuyển đổi từ các đơn vị đã kinh doanh E5 như PVOIL, Petrolimex. Giai đoạn năm 2027, áp dụng tỷ lệ kinh doanh từ 25-35%, nhằm khuyến khích các đơn vị đã kinh doanh xăng E5 như PVOIL, Petrolimex hỗ trợ và chuyển đổi kinh doanh E10 cho các đại lý nhượng quyền. Từ năm 2028 đến 2030, chúng ta có thể tăng tỷ lệ kinh doanh xăng E10 đến 100% và ngưng kinh doanh xăng khoáng từ năm 2030.
Ngoài ra, ông Thắng cũng đề nghị Bộ Công thương, Bộ KH-CN cần đưa ra các khuyến cáo, khuyến nghị về các dòng xe/đời xe không tương thích để sử dụng xăng E10 và cần có kế hoạch, lộ trình để loại bỏ các dòng xe/đời xe quá cũ không đảm bảo tiêu chuẩn lưu thông.
Theo ông Thắng, các doanh nghiệp đầu mối xăng dầu phải tính đủ chi phí và đảm bảo lợi nhuận cho doanh nghiệp bán lẻ xăng dầu từ 10-15% so với giá bán lẻ. Bởi thực tế lợi nhuận thông qua hình thức chiết khấu (hoa hồng) 3-7% như hiện nay là rất khó khăn cho các doanh nghiệp bán lẻ. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần có các chính sách khung hỗ trợ pháp lý, kỹ thuật, tài chính để doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu thuận lợi chuyển đổi kinh doanh xăng E10.
Sau hai phiên thảo luận đầy sôi nổi, PGS.TS Ngô Trí Long nhấn mạnh một lần nữa xăng E10 không phải thử nghiệm mà là một sản phẩm chiến lược vì có chi phí thấp, có độ sẵn sàng cao khi hội tụ cả điều kiện cần và đủ để đưa ra thị trường. Cũng theo ông Long, xăng E10 mang lại nhiều lợi ích đồng thời cho cả năng lượng, nông nghiệp và môi trường. Song cũng cần rút kinh nghiệm từ việc triển khai xăng E5 trước đó. Bởi khi đó còn thiếu quyết liệt, thiếu lộ trình và thiếu niềm tin thị trường.
“Đây là thời điểm chúng ta làm lại nhưng với tư duy mạnh mẽ hơn, dựa trên các bằng chứng quốc tế, khoa học rõ ràng. Thành công của E10 sẽ tạo nền tảng trong hành trình chuyển đổi năng lượng xanh của Việt Nam”, ông Long nhấn mạnh.
Phát biểu kết luận buổi tọa đàm, bà Nguyễn Thúy Hiền, Phó Cục trưởng Cục quản lý và Phát triển thị trường trong nước (Bộ Công thương) cho biết, sau khi lắng nghe ý kiến của các đại biểu, bức tranh chung về những thách thức và tiềm năng của xăng sinh học E10 khi triển khai vào thực tế đã dần rõ nét hơn. Bà Hiền cho biết, sẽ tiếp thu các ý kiến trao đổi trong buổi tọa đàm hôm nay để tham mưu lại cùng Bộ Công thương; đồng thời phối hợp tích cực với các bộ ngành để có các chính sách phù hợp hơn cho doanh nghiệp khi triển khai trong thực tế.
Cùng với đó, các cơ quan quản lý nhà nước sẽ đẩy mạnh truyền thông đến người tiêu dùng để có được sự thành công khi triển khai đồng bộ xăng sinh học E10 vào tháng 6-2026.
Tuy nhiên, bà Hiền nhấn mạnh, để xăng sinh học E10 có thể phát huy hết hiệu quả mong muốn thì ngoài sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, sự quyết tâm cao của Bộ Công thương thì cũng rất cần sự chủ động hơn nữa từ phía các doanh nghiệp.
“Chỉ khi có sự vào cuộc đồng bộ của các bên liên quan thì việc đưa xăng E10 vào thực tế mới đạt hiệu quả cao nhất. Và tôi rất đồng tình với nhận định của PGS.TS Ngô Trí Long, việc triển khai xăng sinh học E10 là nền tảng quan trọng của hành trình chuyển đổi xanh của Việt Nam”, bà Hiền khẳng định.
Phó Tổng Biên tập Báo SGGP Phạm Văn Trường nhìn nhận, việc chuyển đổi xanh, giảm phát thải sẽ hướng đến nền kinh tế xanh. Đây là một xu hướng không thể thiếu trên phạm vi toàn cầu. Hiện nay, Việt Nam đang nỗ lực tham gia nhằm hướng tới phát triển giao thông xanh, giảm khí thải nhà kính, bảo vệ môi trường.
Để làm được điều này, chúng ta phải làm sao quy hoạch được vùng nguyên liệu, xây dựng có chiến lược nhằm đảm bảo nguyên liệu cung ứng phục vụ chuyển đổi năng lượng xanh. Chính vì thế, các bộ phận, đơn vị, đối tượng liên quan cùng bắt tay, cùng tham gia vào thực hiện. Việc thực hiện cần phải có lộ trình, công tác truyền thông ban đầu với kế hoạch triển khai từ Trung ương cùng sự phối hợp các sở, ngành liên quan.
Việc xây dựng kế hoạch truyền thông bài bản, từng bước để làm sao nâng cao nhận thức của người tiêu dùng là hết sức cần thiết. “Với những ý kiến góp ý tại buổi tọa đàm hôm nay, sẽ kiến nghị các bộ, ngành liên quan tiếp tục hoàn thiện để có những tham vấn, đề xuất với Chính phủ để từ ngày 1-6-2026, chủ trương này được thực hiện một cách toàn diện, đồng bộ. Và đây sẽ mang lại bước tiến trong việc chuyển đổi xanh, bảo vệ môi trường, thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất tiêu dùng”, Phó Tổng Biên tập Báo SGGP Phạm Văn Trường nói.