Thu hẹp “khoảng trống chính sách - thực thi”

Dự thảo văn kiện trình Đại hội lần thứ XIV của Đảng đã chỉ ra điểm nghẽn trong tăng trưởng và năng suất lao động, đồng thời nhấn mạnh nguyên nhân gốc rễ: khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KHCN, ĐMST) vẫn chưa thực sự trở thành động lực trung tâm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì thế, thu hẹp “khoảng trống chính sách - thực thi” trở thành yêu cầu cấp bách để biến khát vọng tăng trưởng dựa trên tri thức thành hiện thực.

Cải cách thể chế tài chính

Dự thảo văn kiện trình Đại hội lần thứ XIV của Đảng đã có những đánh giá xác đáng về bối cảnh kinh tế - xã hội, thẳng thắn chỉ ra những vấn đề cốt lõi như: tăng trưởng chưa tương xứng tiềm năng và năng suất lao động tăng chậm hơn mục tiêu. Những hạn chế này có liên hệ sâu sắc tới thực trạng “KHCN, ĐMST chưa trở thành động lực chính cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.

G3b.jpg
Người dân trải nghiệm các ứng dụng chuyển đổi số của TPHCM. Ảnh: HOÀNG HÙNG

Đây là biểu hiện của một “khoảng trống chính sách - thực thi” cần lưu tâm. Vấn đề nằm ở các điểm nghẽn cố hữu: nguồn lực đầu tư còn hạn chế, khi tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho KHCN chưa đạt mục tiêu 2% tổng chi; cơ chế tài chính cứng nhắc dẫn đến nghịch lý có tiền nhưng không sử dụng được. Đồng thời, việc thực thi Nghị quyết số 68-NQ/TW chưa đủ mạnh để đưa kinh tế tư nhân vào đúng vị trí trung tâm của hệ thống ĐMST quốc gia.

Về tầm nhìn chiến lược, dự thảo văn kiện đặt ra các mục tiêu lớn cho giai đoạn 2026-2030, như tăng trưởng GDP từ 10%/năm, đóng góp của TFP trên 55% và năng suất lao động tăng 8,5%/năm. Hệ thống chỉ tiêu này có logic đúng đắn, trong đó TFP và năng suất lao động là điều kiện tiên quyết để đạt được mục tiêu tăng trưởng. Để giám sát quá trình chuyển đổi này một cách thực chất, cần bổ sung một số chỉ tiêu định lượng có khả năng so sánh quốc tế. Cụ thể là tổng chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D) trên GDP và tỷ trọng chi R&D của khu vực doanh nghiệp trên tổng chi R&D quốc gia. Việc đưa các chỉ tiêu này vào hệ thống giám sát sẽ tạo áp lực tích cực và cung cấp thước đo cụ thể, giúp điều chỉnh chính sách kịp thời, hiệu quả hơn.

Để hiện thực hóa tầm nhìn chiến lược, cần có những giải pháp cải cách đột phá, tháo gỡ rào cản thể chế, gắn liền với việc triển khai quyết liệt các Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 68-NQ/TW. Việc thực thi hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW đòi hỏi một cuộc “đại phẫu” về thể chế quản lý tài chính cho KHCN, chuyển đổi dứt khoát từ cơ chế “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” và luật hóa cơ chế “chấp nhận rủi ro” trong nghiên cứu khoa học. Chính sách này sẽ xem xét thất bại là một phần tất yếu của quá trình sáng tạo, không hình sự hóa các rủi ro khoa học. Qua đó khuyến khích các nhà khoa học dấn thân vào các hướng nghiên cứu mới, có tính đột phá.

Bên cạnh đó, cần trao quyền tự chủ toàn diện cho các viện nghiên cứu, trường đại học công lập về tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính, cho phép các đơn vị này vận hành theo cơ chế quản trị tiên tiến. Đồng thời, cần khẩn trương xây dựng và vận hành các khung pháp lý thử nghiệm cho các công nghệ mới, cho phép doanh nghiệp ĐMST trong một môi trường được kiểm soát, từ đó tạo cơ sở thực tiễn để hoàn thiện thể chế.

Đặt doanh nghiệp làm trung tâm

Song song đó, việc cụ thể hóa Nghị quyết số 68-NQ/TW yêu cầu đặt kinh tế tư nhân vào đúng vị trí trung tâm của hệ thống ĐMST bằng các chính sách thực chất. Cần xây dựng các cơ chế ưu đãi vượt trội, đủ sức hấp dẫn để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào R&D, chẳng hạn như chính sách “siêu khấu trừ thuế” cho phép doanh nghiệp khấu trừ tỷ lệ cao đối với chi phí R&D khi tính thuế. Các chương trình của Nhà nước đồng tài trợ trực tiếp cho các dự án R&D có rủi ro cao của doanh nghiệp, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ chiến lược, như chip bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, cũng sẽ là đòn bẩy hữu hiệu.

Ngoài ra, cần tái cấu trúc cơ chế tài chính nhằm khơi thông dòng vốn cho ĐMST. Lộ trình pháp lý hóa để đảm bảo chi ngân sách cho KHCN đạt và vượt mục tiêu 2% tổng chi là hết sức cần thiết. Quan trọng hơn, việc học hỏi kinh nghiệm quốc tế thành công (như Israel, Hàn Quốc) để thành lập một Quỹ đầu tư mạo hiểm Quốc gia theo mô hình “Quỹ của các Quỹ” (Fund-of-Funds) là cấp thiết. Theo đó, Nhà nước không đầu tư trực tiếp vào các startup mà đóng vai trò “nhà đầu tư mồi”, rót vốn vào các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân chuyên nghiệp. Cơ chế này sẽ giúp thu hút và phát triển một thị trường vốn mạo hiểm chuyên nghiệp, giải quyết điểm nghẽn lớn nhất của hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo hiện nay.

Các mục tiêu dự thảo văn kiện đề ra là cấp thiết, song để biến khát vọng thành hiện thực, trong giai đoạn tới đòi hỏi một quyết tâm chính trị mạnh mẽ trong việc thực thi các cải cách thể chế một cách triệt để. Trọng tâm của cuộc cải cách này là sự chuyển đổi vai trò của Nhà nước từ “người quản lý, kiểm soát” sang “người kiến tạo môi trường, xúc tác và chia sẻ rủi ro”. Việc lồng ghép và triển khai quyết liệt các Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 68-NQ/TW thông qua các giải pháp cụ thể nêu trên sẽ là con đường khả thi nhất để giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo, đưa KHCN và ĐMST thực sự trở thành động lực nội sinh mạnh mẽ, giúp đất nước bứt phá thành công, hiện thực hóa tầm nhìn phát triển đến năm 2030 và năm 2045.

Tin cùng chuyên mục