Việc ứng dụng AI đang mở ra cơ hội lớn cho giáo dục cá nhân hóa, tăng khả năng tự học, đổi mới phương pháp giảng dạy và thúc đẩy học tập suốt đời. Tuy nhiên, đi kèm là thách thức về khoảng cách số, đạo đức AI, bảo mật dữ liệu và sự phụ thuộc công nghệ.
Nhằm làm rõ tinh thần các nghị quyết, đánh giá thực tiễn triển khai và đề xuất giải pháp, sáng nay 25-10, tại trụ sở Báo Sài Gòn Giải Phóng, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương phối hợp Báo Sài Gòn Giải Phóng tổ chức tọa đàm “Đẩy mạnh ứng dụng AI trong giáo dục và đào tạo - Những lợi ích và thách thức”.
Chương trình có sự tham gia của các đồng chí: Huỳnh Thành Đạt, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương; Nguyễn Huy Ngọc, Vụ trưởng Vụ Địa phương 3; Bùi Ngọc Quý, Vụ trưởng Vụ Y tế - Thể thao; Phan Việt Phong, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ; Lê Thị Mai Hoa, Phó vụ trưởng Vụ Giáo dục - Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương.
Về phía Bộ GD-ĐT, chương trình có sự tham dự của Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Văn Phúc; Giám đốc Trung tâm Phát triển Giáo dục và Đào tạo phía Nam Lê Thắng Lợi.
Về phía Bộ Khoa học - Công nghệ, có Vụ trưởng Vụ Khoa học xã hội, Nhân văn và Tự nhiên (Bộ Khoa học và Công nghệ) Trần Quốc Cường.
Về phía lãnh đạo TPHCM, có PGS-TS Dương Anh Đức, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy TPHCM.
Về phía Báo Sài Gòn Giải Phóng, có nhà báo Nguyễn Khắc Văn, Quyền Tổng Biên tập; Bùi Thị Hồng Sương, Phó Tổng Biên tập.
Ngoài ra, chương trình còn có sự tham dự của lãnh đạo Sở GD-ĐT, Sở Khoa học công nghệ TPHCM cùng đại diện các cơ sở giáo dục phổ thông và đại học trên địa bàn thành phố.
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong giáo dục – Xu thế tất yếu
Phát biểu khai mạc tọa đàm, Quyền Tổng Biên tập Báo Sài Gòn Giải Phóng Nguyễn Khắc Văn cho biết, Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22-8-2025 của Bộ Chính trị xác định một trong những nhiệm vụ đột phá chiến lược là: “Chuyển đổi số toàn diện, phổ cập và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong giáo dục, đào tạo”.
Đây không chỉ là một chủ trương mang tính định hướng, mà còn là mệnh lệnh của thực tiễn, đòi hỏi ngành giáo dục Việt Nam phải chủ động thích ứng, đổi mới tư duy, mô hình và phương pháp để bắt kịp, tiến cùng và có thể vượt lên trong xu thế phát triển toàn cầu.
Thực tiễn bước đầu cho thấy, AI đang mở ra nhiều cơ hội mới cho giáo dục Việt Nam như tăng khả năng tiếp cận tri thức, thu hẹp khoảng cách vùng miền, nâng cao bình đẳng trong học tập; thúc đẩy giáo dục cá nhân hóa, giúp mỗi học sinh phát huy tối đa tiềm năng của bản thân; khơi dậy tinh thần sáng tạo, nâng cao năng lực tự học, tự nghiên cứu của người học và đổi mới phương pháp giảng dạy của người thầy; góp phần kiến tạo xã hội học tập, hình thành thói quen học tập suốt đời trong cộng đồng.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích to lớn, việc ứng dụng AI trong giáo dục cũng đặt ra nhiều thách thức: từ vấn đề an toàn dữ liệu, đạo đức học thuật, năng lực số của giáo viên, đến nguy cơ phụ thuộc công nghệ, chênh lệch hạ tầng giữa các vùng miền. Làm thế nào để AI phục vụ con người, chứ không thay thế con người, để công nghệ thực sự thúc đẩy công bằng, nhân văn trong giáo dục – đó chính là những vấn đề cần được trao đổi, thảo luận sâu trong tọa đàm.
6 khuyến nghị triển khai AI trong giáo dục
Đánh giá về sự cấp thiết của việc đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong giáo dục và đào tạo, TS. Lê Thị Mai Hoa, Phó Vụ trưởng, Vụ Giáo dục Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, cho biết, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương về phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo trong giáo dục và đào tạo như: Quyết định số 127/QĐ-TTg (ngày 26-1-2021) của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng Trí tuệ nhân tạo đến năm 2030; Nghị quyết số 57-NQ/TW (ngày 22-12-2024) của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 71-NQ/TW (ngày 22-8-2025) của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo…
Trên cơ sở đó, TS. Lê Thị Mai Hoa đưa ra 6 khuyến nghị:
Thứ nhất, xây dựng chương trình hiểu biết về trí tuệ nhân tạo quốc gia “AI Literacy quốc gia” dành cho học sinh và giáo viên ở các cấp học từ Tin học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông. Đây là một hướng đi cụ thể hóa theo chỉ đạo của Nghị quyết số 71-NQ/TW về “phổ cập và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong giáo dục, đào tạo”.
Thứ hai, đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên về kỹ năng số và đạo đức sử dụng AI. Việc đào tạo giáo viên không chỉ dừng lại ở kỹ năng công nghệ, mà còn phải chú trọng đến năng lực đánh giá, định hướng, và bảo đảm an toàn học đường trong môi trường số, gắn với phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.
Thứ ba, tích hợp AI vào các môn học STEM (Toán, Lý, Hóa, Tin học) thay vì tách biệt thành môn riêng.
Thứ tư, xây dựng khung quy định về đạo đức học thuật và sử dụng AI trong nghiên cứu, giảng dạy.
Thứ năm, đầu tư phát triển hạ tầng số và các nền tảng AI “Make in Vietnam” phù hợp với dữ liệu và ngôn ngữ tiếng Việt.
Thứ sáu, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, truyền thông phổ cập nhận thức về AI trong giáo dục và đào tạo tới các cơ sở đào tạo, các nhà trường phổ thông, các địa phương, người học, người dạy và cộng đồng giáo dục.
Ba trụ cột chiến lược ứng dụng AI trong giáo dục phổ thông
Chia sẻ tại toạ đàm về các giải pháp đột phá ứng dụng AI trong giáo dục phổ thông, bà Nguyễn Phương Lan, Tổng Giám đốc Tập đoàn EMG Education, cho biết, việc đẩy mạnh ứng dụng AI dựa trên 3 trụ cột chiến lược là: Đào tạo Tiếng Anh; Đào tạo năng lực số; Các công nghệ lõi ứng dụng AI kết hợp Metaverse.
Bà Nguyễn Phương Lan dẫn chứng thực tế tại EMG, AI được ứng dụng trong chương trình Tiếng Anh tích hợp; ứng dụng công nghệ AI EMG IMMERSIVE LEARNING (dạy tiếng Anh theo mô hình đắm chìm ngôn ngữ tổng thể) và ứng dụng công nghệ AI trong công tác khảo thí. Qua đó, hình thành hệ sinh thái khép kín có sự tham gia của AI, từ học tập đến đánh giá khảo thí: tạo và quản lý ngân hàng đề thông minh, hỗ trợ chấm thi và đánh giá năng lực, trợ lý ảo và giáo viên ảo AI để hỗ trợ luyện thi, phân tích dữ liệu đánh giá.
Đối với trụ cột đào tạo năng lực số, AI được ứng dụng trong chương trình tích hợp năng lực số hướng chuẩn quốc tế ICDL; các chương trình đào tạo năng lực AI duy đổi mới sáng tạo, chương trình đào tạo kỹ năng sử dụng công nghệ. Đối với trụ cột các công nghệ lõi ứng dụng AI kết hợp Metaverse, một số ứng dụng cũng đã được EMG triển khai như hệ thống quản lý học tập LMS, nền tảng Metaverse.
“Các công nghệ lõi ứng dụng AI không chỉ ứng dụng công nghệ vào một chương trình cụ thể, mà xây dựng một nền tảng công nghệ để triển khai mô hình trường học số toàn diện, có khả năng mở rộng, góp phần vào công cuộc chuyển đổi số và rút ngắn khoảng cách trong ngành giáo dục”, bà Nguyễn Phương Lan cho nhấn mạnh.
Dạy AI từ sớm để hình thành tư duy lập trình và giải quyết vấn đề
Ông Nguyễn Việt Trung, Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Giáo dục KDI, nêu ý kiến, giáo dục về AI có thể triển khai từ cấp tiểu học và THCS chứ không nên chờ đến cấp THPT nhằm trang bị nền tảng kiến thức và kỹ năng cho học sinh.
Theo đó, học sinh được rèn luyện về tư duy lập trình và thuật toán; tư duy giải quyết vấn đề; tư duy thiết kế. Song song đó, các vấn đề về đạo đức và xã hội của AI cũng được giáo dục lồng ghép thông qua các nội dung như: nhận thức về AI trong cuộc sống; sự thiên lệch, các vấn đề thông tin sai lệch của AI; quyền riêng tư, bản quyền, bảo mật thông tin; AI và các nghề nghiệp học sinh quan tâm.
Chuyển đổi số giáo dục cần nền tảng phần mềm thống nhất
Theo PGS-TS Nguyễn Xuân Hoàn, Hiệu trưởng Trường ĐH Công Thương TPHCM, hiện nay, nhà trường đang đầu tư chuyển đổi số toàn diện hoạt động, với mức đầu tư khoảng 15-20 tỷ đồng cho hạ tầng công nghệ, đào tạo, quản lý.
Dù vậy, hệ thống phần mềm hiện hữu còn nhiều hạn chế: thường xuyên gặp lỗi kỹ thuật, dữ liệu không đồng bộ giữa các phân hệ gây ra sai lệch số liệu, ảnh hưởng lớn đến công tác thống kê, báo cáo và ra quyết định quản trị. Các đơn vị gặp nhiều khó khăn trong việc khai thác và sử dụng dữ liệu dùng chung. Bên cạnh đó, việc cập nhật, nâng cấp hoặc khắc phục sự cố phần mềm thường phải chờ đợi lâu, tiêu tốn nhiều thời gian và chi phí do phụ thuộc vào đơn vị phát triển bên ngoài. Hiện nay, ngay cả phần mềm của Bộ GD-ĐT trong quản lý, thống kê cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của các trường trong công tác tuyển sinh, thống kê, quản lý văn bằng, chứng chỉ...
PGS-TS Nguyễn Xuân Hoàn đề xuất Bộ KH-CN, Bộ GD-ĐT cần nghiên cứu, phối hợp xây dựng một hệ thống phần mềm dùng chung để các trường sử động đồng bộ, tránh việc triển khai ứng dụng AI mỗi trường mỗi cách.
Triển khai AI trong giáo dục phổ thông cần ba trụ cột vững chắc
Trình bày tham luận "Dạy và học AI trong trường phổ thông Việt Nam", GS.TS Lê Anh Vinh, Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, cho biết hiện nay Bộ GD-ĐT đang xây dựng khung chương trình giáo dục AI dành cho học sinh từ lớp 1 đến lớp 12.
Trước đó, theo kết quả khảo sát về mức độ sẵn sàng của học sinh Việt Nam đối với AI do Viện thực hiện vào cuối năm 2024, hơn 87% học sinh THCS có hiểu biết về AI. Tuy nhiên, chỉ có 17% học sinh ứng dụng AI rất hiệu quả, 50% học sinh ứng dụng hiệu quả, hơn 30% còn lại cảm thấy bình thường hoặc ứng dụng không hiệu quả.
Trong đó, một số khó khăn học sinh gặp phải khi sử dụng Al gồm: thiếu kiến thức và kỹ năng về AI; thiếu trang thiết bị, công nghệ; thiếu hướng dẫn từ giáo viên…
Đối với giáo viên, kết quả khảo sát cho thấy, 76% giáo viên cho biết đã từng sử dụng AI trong giảng dạy. Trong đó, một tỷ lệ đáng lo ngại là có 30,95% giáo viên phân vân về hiệu quả sử dụng; hơn 20% giáo viên chưa tự tin khi ứng dụng AI trong giáo dục.
Ở góc độ nghiên cứu, GS.TS Lê Anh Vinh đặt vấn đề: “Công nghệ hiện nay chưa giải quyết triệt để các vấn đề của giáo dục mà mới giải quyết vấn đề của công nghệ. Đơn cử, giáo viên sử dụng AI chấm bài cho học sinh trong khi người học không có nhu cầu chấm bài thi bằng máy. Một ví dụ khác là hiện nay học sinh và giáo viên sử dụng các công cụ AI để tiết kiệm thời gian soạn bài giảng, làm bài tập. Tuy nhiên, nếu không sử dụng các công cụ một cách thông minh, đúng mục đích, việc ứng dụng không mang lại hiệu quả thiết thực đối với giảng dạy và học tập”.
Từ thực tế đó, đại diện Viện Khoa học giáo dục Việt Nam đề xuất, việc triển khai AI trong giáo dục phổ thông cần dựa trên 3 trụ cột chính: khung chính sách nhất quán (đảm bảo các yêu cầu về đạo đức, an toàn dữ liệu và định hướng dài hạn); chương trình giảng dạy, tài liệu học tập toàn diện, linh hoạt; nguồn lực con người và tài chính.
Đặc biệt, các chính sách cần ưu tiên tập trung xây dựng khung năng lực AI cho học sinh và giáo viên; hướng dẫn ứng dụng AI trong giảng dạy và đầu tư vào hạ tầng số nhằm thu hẹp khoảng cách vùng miền.
Đưa AI vào trường học: Cần bắt đầu từ hạ tầng và đội ngũ giáo viên
Là một trong những trường tiểu học đầu tiên trên địa bàn TPHCM khánh thành Phòng học Kỹ năng công dân số, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm (phường Sài Gòn, TPHCM) Đỗ Ngọc Chi cho biết, để đẩy mạnh ứng dụng AI, nhà trường bắt đầu bằng những bước đi căn cơ là xây dựng hạ tầng, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, kết hợp với đổi mới cách dạy, cách học.
Trường Tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đầu tư công trình “Phòng Kỹ năng số – Digital Skill Classroom” với diện tích 48m², thiết kế mở – linh hoạt – hiện đại. Phòng được trang bị 40 máy tính bảng, Smart TV, Internet tốc độ cao, hệ thống âm thanh – điều hòa, cùng poster, khẩu hiệu và mã QR học tập về an toàn mạng và nguyên tắc công dân số. Không gian ấy không chỉ là phòng học công nghệ, mà còn là một môi trường giáo dục giá trị sống trong thời đại số - nơi học sinh học cách làm chủ công nghệ, chứ không bị công nghệ chi phối.
Về bồi dưỡng đội ngũ, đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên được bồi dưỡng về khai thác học liệu số và công cụ AI hỗ trợ dạy học; ứng dụng nền tảng LMS, Microsoft Teams, phần mềm quản lý lớp học trực tuyến; lồng ghép kỹ năng công dân số trong bài giảng và hoạt động trải nghiệm. Đặc biệt, giáo viên được khuyến khích chuyển từ “truyền đạt kiến thức” sang “dẫn dắt năng lực”, lấy công nghệ và AI làm người bạn đồng hành, giúp học sinh tư duy phản biện, sáng tạo và ứng xử văn minh trong không gian mạng.
Dạy AI trong trường phổ thông: Cần tiếp cận theo cấp độ và giải bài toán thiếu giáo viên
Hiệu trưởng Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong (phường Chợ Quán, TPHCM) Phạm Thị Bé Hiền, cho biết đã triển khai môn Trí tuệ nhân tạo 7 năm qua. Giai đoạn đầu trường tổ chức hai cấp độ: phổ cập cho học sinh lớp 10 và nâng cao chuyên sâu cho học sinh yêu thích nghiên cứu AI. Sau một thời gian, chương trình được điều chỉnh thành ba cấp độ: phổ cập; nâng cao - ứng dụng; và nâng cao - nghiên cứu chuyên sâu dành cho học sinh định hướng theo học ngành AI ở bậc đại học.
“Tôi cho rằng việc tổ chức cho học sinh tiếp cận bài bản, có hệ thống với AI từ bậc phổ thông là cần thiết và cần nhân rộng trong bối cảnh thời đại số”, Hiệu trưởng Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong bày tỏ.
Qua thực tế triển khai, bà Phạm Thị Bé Hiền cho rằng khó khăn lớn hiện nay là tình trạng thiếu đội ngũ giáo viên được đào tạo bài bản về AI. Đây là bài toán cần được giải quyết và giải quyết sớm. “Hiện tại nhà trường chọn giải pháp hợp đồng với giảng viên các trường đại học và kỹ sư về trí tuệ nhân tạo. Đồng thời, tổ chức bồi dưỡng sâu cho đội ngũ giáo viên tin học của nhà trường”, bà Hiền cho biết.
Mô hình Nhà trường - Doanh nghiệp - Trí tuệ nhân tạo
PGS-TS Đàm Sao Mai, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghiệp TPHCM, cho biết tại các doanh nghiệp, các ngành công nghệ cao đang “khát” nhân lực có kỹ năng số. Các khảo sát gần đây cho thấy, có đến 73% nhà tuyển dụng gặp khó khăn trong việc tìm kiếm ứng viên.
Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghiệp TPHCM đề xuất mô hình liên kết động: Nhà trường - Doanh nghiệp - Trí tuệ nhân tạo. Trong mô hình này, AI không phải là một công cụ đơn thuần, mà đóng vai trò như một "hệ thần kinh trung ương", tạo ra một vòng tuần hoàn giá trị, kết nối và truyền dẫn thông tin liên tục, theo thời gian thực giữa giảng đường và thị trường lao động.
Tuy nhiên, trước những rủi ro về mặt trái của công nghệ, PGS-TS Đàm Sao Mai cho rằng, cần một khung quản trị có trách nhiệm để đảm bảo AI trở thành một đồng minh đắc lực, chứ không phải một thế lực không thể kiểm soát. Bộ GD-ĐT cần nghiên cứu thành lập Hội đồng đạo đức AI trong giáo dục để đảm bảo tính công bằng, minh bạch của thuật toán và quan trọng nhất, khẳng định rằng mọi quyết định quan trọng cuối cùng vẫn phải do con người.
PGS-TS Đàm Sao Mai gợi ý về một “liên minh đổi mới sáng tạo”: “Chúng tôi kiến nghị Bộ GD-ĐT sớm ban hành một Thông tư hướng dẫn cụ thể việc ứng dụng AI trong giáo dục đại học. Ngoài ra, Nhà nước cũng có thể tính đến việc thành lập một Quỹ Chuyển đổi số trong giáo dục đại học. Quỹ này là một công cụ đầu tư chiến lược, ưu tiên tài trợ cho các dự án có sự tham gia và đối ứng vốn từ doanh nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp cũng phải nhập cuộc nhiều hơn, thay vì chỉ đứng ở vị trí người tuyển dụng và than phiền về việc thiếu nhân lực”.
Đạo đức là nền móng để giáo dục số phát triển bền vững
Tham luận tại tọa đàm, PGS-TS Nguyễn Văn Vũ, Phó Trưởng Khoa CNTT, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên (ĐHQG TPHCM) đưa ra những cảnh báo vấn đề Đạo đức trong kỷ nguyên giáo dục số và AI. Ông viện dẫn những sự việc đáng tiếc từng xảy ra trên thế giới, và đặt ra câu hỏi lớn: Công nghệ có thể hỗ trợ giáo dục, nhưng nếu thiếu khung đạo đức, nó sẽ trở thành công cụ gây tổn hại.
Trong hơn 10 năm nay, AI phát triển vượt bậc, mở ra kỷ nguyên mới cho nhân loại, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục. AI ảnh hưởng sâu rộng công cụ tìm kiếm, hệ thống gợi ý học liệu, trợ lý ảo, đến phần mềm chấm điểm tự động và mạng xã hội. Nó mang lại cơ hội đổi mới phương pháp dạy và học, đồng thời cũng lộ rõ nhiều nguy cơ. Một đoạn video giả mạo bằng công nghệ deepfake lan truyền trên mạng, một hệ thống gợi ý nghề nghiệp mang định kiến giới, hay một ứng dụng học tập thiết kế gây nghiện đều cho thấy: AI vừa có thể là động lực kiến tạo, vừa tiềm ẩn nguy cơ nếu thiếu kiểm soát đạo đức.
Do đó, vấn đề đạo đức trong AI là hệ thống nguyên tắc, giá trị và chuẩn mực nhằm bảo đảm công nghệ này được phát triển, triển khai và sử dụng theo cách công bằng, minh bạch, an toàn và có trách nhiệm. Mục tiêu cao nhất là bảo vệ nhân phẩm, quyền tự do và lợi ích chính đáng của con người. Có thể tóm gọn một số yếu tố then chốt:
- Minh bạch - hệ thống cần có cơ chế giải thích và kiểm chứng, tránh tình trạng “hộp đen”;
- Công bằng - công nghệ không được tái tạo định kiến xã hội, không phân biệt đối xử dựa trên giới tính, vùng miền hay hoàn cảnh;
- Trách nhiệm - cá nhân và tổ chức phát triển, triển khai hệ thống phải chịu trách nhiệm trước hệ quả mà nó gây ra;
- Bảo vệ nhân quyền - AI không được xâm phạm quyền riêng tư, tự do và nhân phẩm; Nhân văn - công nghệ phải hướng tới lợi ích chung, đóng góp cho sự phát triển bền vững.
“Điều quan trọng không phải là né tránh công nghệ, mà là biết cách sử dụng nó một cách đúng đắn và nhân văn. Đạo đức trong AI chính là nền tảng để giáo dục số phát triển bền vững”, PGS-TS Nguyễn Văn Vũ nhấn mạnh.
"Thầy dùng AI, trò dùng AI mà cả hai lờ đi không biết"
Ông Lê Trường Tùng, Chủ tịch Hội đồng Trường ĐH FPT, Tập đoàn FPT, nêu lên một thực tế khi nhiều người không dám thừa nhận sự chi phối của AI trong công việc. Ông cho rằng, vấn đề không chỉ là cần có quy định, quy chế, xây dựng bộ quy tắc trong sử dụng AI, mà còn phải xây dựng các mô hình đào tạo phù hợp với sự phát triển của AI.
TS Lê Trường Tùng cho biết, hiện FPT đang phát mô hình đảo ngược bảo đảm theo quy định hiện hành, trong đó việc học lý thuyết của sinh viên sẽ không chiếm nhiều thời gian ở trên lớp, thay vào đó là giải quyết vấn đề và sáng tạo.
GS-TS Hoàng Văn Kiếm: Trong kỷ nguyên AI quan nhất là "ai nhân văn hơn"
Phát biểu tham luận tại toạ đàm, GS_TS Hoàng Văn Kiếm, Cố vấn cấp cao CNTT Trường ĐH Quốc tế Sài Gòn, nguyên Hiệu trưởng Trường ĐH Công Nghệ Thông tin (ĐHQG TPHCM), cho biết, AI là thành tựu của trí tuệ con người, cũng là tấm gương phản chiếu chính chúng ta. Nếu chúng ta dạy AI biết nói đúng, mà quên dạy con người biết sống đúng, thì nguy cơ không đến từ AI, mà đến từ chính sự lười biếng tinh thần của con người. Vì thế, điều quan trọng nhất trong kỷ nguyên AI không phải là “ai thông minh hơn”, mà là “ai nhân văn hơn”. Khi con người biết giữ lại trong mình ánh sáng của đạo đức, của cảm xúc và của sự sáng tạo, thì mọi công nghệ – kể cả AI – sẽ trở thành người bạn đồng hành trong hành trình tiến hóa trí tuệ và tâm hồn nhân loại.
Thế giới có nhiều quốc gia triển khai ứng dụng AI trong giáo dục nhưng đã có quốc gia thất bại do chưa có sự chuẩn bị đầy đủ. Một bộ sách giáo khoa mới cần 6-7 năm mới hoàn thành nên việc đưa AI và giáo dục đối với Việt Nam cần có sự chuẩn bị và thử nghiệm, thế giới cũng đang trong quá trình thử nghiệm. Theo tôi, lộ trình triển khai phải phù hợp với điều kiện Việt Nam. Có thể triển khai AI cho giáo dục phổ thông theo ba giai đoạn:
Giai đoạn 1 là làm quen – khám phá (Tiểu học): Cho học sinh tiếp xúc nhẹ nhàng qua trò chơi, hình ảnh, ứng dụng học tập vui nhộn có yếu tố AI. Mục tiêu là giúp các em hình thành tư duy công nghệ và tính tò mò sáng tạo.
Giai đoạn 2: Hiểu biết – ứng dụng cơ bản (THCS): học sinh bắt đầu tìm hiểu nguyên lý hoạt động của AI, học cách đặt câu hỏi, phân tích dữ liệu đơn giản, và ứng dụng AI để học các môn khác.
Giai đoạn 3: Tư duy sáng tạo – sử dụng có trách nhiệm (THPT): Học sinh học cách hợp tác với AI để giải quyết vấn đề, làm dự án nghiên cứu nhỏ, đồng thời rèn luyện đạo đức, trách nhiệm và bản lĩnh cá nhân trong sử dụng công nghệ.
Lan tỏa tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW vào giáo dục qua chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo
Đồng chí Huỳnh Thành Đạt, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, đánh giá cao và biểu dương Báo Sài Gòn Giải Phóng đã chủ động đề xuất và phối hợp tổ chức buổi tọa đàm trong bối cảnh hiện nay. Việc tổ chức tọa đàm không chỉ đáp ứng được tính thời sự và tính thực tiễn của vấn đề, mà còn bảo đảm tính khoa học, khách quan và giá trị định hướng trong công tác tuyên truyền, góp phần lan tỏa tinh thần các nghị quyết của Đảng vào đời sống xã hội.
Từ các kết quả và đề xuất tại tọa đàm, đồng chí Huỳnh Thành Đạt đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ sớm tham mưu Chính phủ ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai Chiến lược AI trong giáo dục; đặc biệt là Khung đạo đức AI trong trường học và chương trình, tài liệu AI cho cấp phổ thông.
Bên cạnh đó, đồng chí đề xuất Chính phủ và các bộ, ngành nghiên cứu xây dựng Quỹ chuyển đổi số trong giáo dục đại học – một quỹ đầu tư chiến lược, có cơ chế, chính sách đột phá để thu hút nguồn lực xã hội hóa, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào hạ tầng số và các giải pháp AI trong giáo dục.
Về phía các cơ sở giáo dục đại học, cần đào tạo chủ động, tiên phong trong đổi mới, học hỏi các mô hình thành công thay vì bị động phụ thuộc vào các giải pháp bên ngoài.
Ngoài ra, cộng đồng các doanh nghiệp cần thay đổi tư duy, chuyển từ vai trò là "người sử dụng lao động" thụ động sang vị thế là "người đồng kiến tạo" ra nguồn nhân lực.
Cuối cùng, các cơ quan thông tấn, báo chí cần tiếp tục sứ mệnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về cả lợi ích và thách thức của AI, tạo sự đồng thuận xã hội và tâm thế chủ động, sẵn sàng hội nhập cho người dân.
“Tôi tin tưởng với tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị, cùng sự đồng hành của đội ngũ trí thức, nhà giáo, nhà khoa học và doanh nghiệp công nghệ, chúng ta sẽ xây dựng được nền giáo dục Việt Nam hiện đại, nhân văn, sáng tạo, mang bản sắc dân tộc và tầm vóc thời đại”, đồng chí Huỳnh Thành Đạt bày tỏ.