Ngay trước phiên thảo luận vòng 2 của Quốc hội (dự kiến chiều ngày 12-6) về dự thảo nghị quyết về xử lý nợ xấu của các tố chức tín dụng - phiên thảo luận cuối cùng trước khi dự thảo nghị quyết được thông qua, Tổng thư ký Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc đã gửi đến các vị ĐBQH báo cáo tổng hợp thảo luận tại tổ và hội trường (vòng 1) về nội dung này.
Theo Báo cáo, bên cạnh nhiều ý kiến đồng ý với sự cần thiết ban hành nghị quyết, cũng còn khá nhiều quan điểm khác. Một số ĐBQH băn khoăn vì dự thảo nghị quyết mới được bổ sung vào nội dung kỳ họp, đề nghị làm rõ việc tách riêng nghị quyết này với dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng để bảo đảm tính ổn định, lâu dài trong việc thi hành. Một số đề nghị cân nhắc việc luật hóa các quy định, cho rằng nghị quyết “tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng hơn là cho các đối tượng khác”. Mặt khác, việc ban hành nghị quyết theo thủ tục rút gọn ngay trong một kỳ họp của Quốc hội có thể tạo thành tiền lệ “phá lệ”, cần lấy thêm ý kiến đánh giá của Bộ Tư pháp về việc này.
Có ý kiến đề nghị Quốc hội thay vì ban hành nghị quyết với các nội dung dự thảo hoặc gần như dự thảo thì ban hành nghị quyết thí điểm cho công ty quản lý tài sản tổ chức tín dụng Việt Nam thực hiện một số quyền và nhiệm vụ để chủ động hơn trong xử lý tài sản theo cơ chế thị trường rõ.
Đại biểu cũng đề nghị rà soát lại hệ thống văn bản pháp luật liên quan, những quyết định quan trọng đến chất lượng, hiệu quả giám sát để sửa đổi, bổ sung, hoặc yêu cầu thí điểm một hoặc một số vấn đề nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất phát triển, giải quyết nguyên nhân chính của nợ xấu chứ không nên ban hành một nghị quyết mà “gần một nửa nội dung mâu thuẫn với luật hiện hành”.
Đáng lưu ý, liên quan đến khẳng định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Minh Hưng về việc sẽ không dùng tiền ngân sách để xử lý nợ xấu (tại phiên thảo luận toàn thể của Quốc hội ngày 7-6 vừa qua), có quan điểm khác đề nghị cân nhắc không nên bổ sung, vì mặc dù phù hợp với tình hình ngân sách đang eo hẹp hiện nay, nhưng theo kinh nghiệm quốc tế thì để xử lý nợ xấu rất cần bàn tay của nhà nước, cần dùng đến “tiền thật”, nói cách khác là sẽ không khả thi nếu không dùng đến ngân sách nhà nước.
Quan điểm này lập luận rằng, VAMC là doanh nghiệp do nhà nước cấp vốn, nếu không có tiền thì VAMC không xử lý được nợ xấu. Mặt khác, nợ xấu có liên quan đến doanh nghiệp nhà nước nên cần có trách nhiệm của nhà nước trong xử lý nợ xấu dựa trên khả năng nguồn ngân sách nhà nước.
Cần phân biệt rõ, đối với nợ đọng xây dựng cơ bản, nợ theo các chương trình dự án do Chính phủ chỉ định… thì phải sử dụng ngân sách để xử lý. Một số ý kiến cho rằng, trong thực tế vẫn phải sử dụng ngân sách nhà nước một cách gián tiếp để xử lý nợ xấu, nên nếu quy định nguyên tắc không sử dụng ngân sách để xử lý nợ xấu thì không hợp lý.
Nhiều kiến nghị đáng lưu ý khác cũng đã được nêu ra tại báo cáo của Tổng Thư ký Quốc hội; bao gồm việc bổ sung nguyên tắc xử lý tổ chức, cá nhân gây ra nợ xấu theo chủ quan; tổ chức đấu giá đối với bán nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu; đảm bảo khách quan trong xử lý nợ xấu; bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền; phát huy vai trò của bảo hiểm tiền gửi trong xử lý nợ xấu; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người liên quan (bên cạnh chủ nợ và người vay tiền)…