Bộ Chỉ huy Miền trong Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975

Bài 1: Trước ngưỡng cửa cuộc quyết chiến chiến lược cuối cùng

Thực hiện Hiệp định Paris
Bài 1: Trước ngưỡng cửa cuộc quyết chiến chiến lược cuối cùng

“Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chiến trường Nam bộ, cực Nam Trung bộ, Nam Tây Nguyên (gọi tắt là B2) giữ một vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng. Chỉ huy trực tiếp các lực lượng vũ trang cách mạng trên địa bàn này là Bộ Tư lệnh các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam, tên gọi tắt quen dùng là Bộ Chỉ huy Miền.

Có thể nói, Bộ Chỉ huy Miền là cơ quan tiền phương của Bộ Tổng tư lệnh ở một chiến trường lớn tại miền Nam, bao gồm các quân khu 6, 7, 8, 9, thành phố Sài Gòn-Gia Định và một số tỉnh trực thuộc” (Võ Nguyên Giáp).

Ra đời từ năm 1961, Bộ Chỉ huy Miền là cơ quan chỉ huy cao nhất của các lực lượng vũ trang giải phóng trên chiến trường B2. Kỷ niệm 33 năm ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, SGGP 12 Giờ xin giới thiệu những tư liệu liên quan đến Bộ Chỉ huy Miền. 

Mặc dù buộc phải ký kết Hiệp định Paris về Việt Nam nhưng đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố tiếp tục thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, ra sức phá hoại Hiệp định, đẩy mạnh bình định lấn chiếm một cách quyết liệt, uy hiếp, sẵn sàng gây lại chiến tranh lớn.

Thực hiện Hiệp định Paris

Thực hiện Nghị quyết ngày 9-1-1973 của Quân ủy Trung ương về việc “nghiêm chỉnh chấp hành Hiệp định Paris” và “nhất thiết lực lượng vũ trang ta phải mạnh và luôn luôn sẵn sàng chiến đấu”, Bộ Chỉ huy Miền chỉ đạo các lực lượng vũ trang B2: 1. Đấu tranh thực hiện ngừng bắn; 2. Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng, kiên quyết trừng trị bọn địch lấn chiếm; 3. Xác định rõ tính chất vùng (giải phóng, tranh chấp mạnh, tranh chấp yếu, yếu) và chủ trương, phương châm, phương thức đấu tranh cụ thể phù hợp với từng địa bàn; 4. Tích cực xây dựng lực lượng, huấn luyện quân sự, chuẩn bị hậu cần, kỹ thuật và xây dựng khu giải phóng - căn cứ địa.

Để ổn định căn cứ đứng chân bảo đảm cho hoạt động chỉ đạo chỉ huy, Bộ Chỉ huy Miền dời sở chỉ huy từ Campuchia về Việt Nam, xây dựng căn cứ mới ở sóc Tà Thiết (xã Lộc Thành, Lộc Ninh, Bình Phước). Ban chỉ huy gồm đồng chí: Phạm Hùng (Bí thư Trung ương Cục, Bí thư Quân ủy Miền, Chính ủy); Trần Độ và Lê Văn Tưởng (Phó Chính ủy); đồng chí Hoàng Văn Thái (Tư lệnh), Trần Văn Trà, Lê Đức Anh, Đồng Văn Cống, Nguyễn Thị Định, Nguyễn Hữu Xuyến và Hoàng Cầm (Phó Tư lệnh); Nguyễn Minh Châu (Tham mưu trưởng); Trần Văn Phác (Chủ nhiệm Chính trị); Bùi Phùng (Chủ nhiệm Hậu cần). Đồng thời, Bộ Chỉ huy Miền còn chỉ đạo các đơn vị công binh, bảo vệ, hậu cần xây dựng thị trấn Lộc Ninh thành thủ phủ của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, nơi đặt trụ sở Ban liên hiệp 4 bên, phái đoàn Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát.

Thực hiện điều khoản của Hiệp định, Bộ Chỉ huy Miền cử 100 cán bộ, chiến sĩ thành lập phái đoàn quân sự của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (lấy mật danh là Đoàn 315B) do Trung tướng Trần Văn Trà làm trưởng đoàn. Tại trại Đavít (sân bay Tân Sơn Nhất - Sài Gòn), Đoàn đã kiên quyết đấu tranh pháp lý với Mỹ-ngụy nhằm thực hiện việc chấm dứt dính líu quân sự của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, rút hết quân, triệt tiêu các căn cứ quân sự; giữ vững lập trường nước Việt Nam là một, giới tuyến quân sự chỉ là tạm thời, thực tế miền Nam có 2 chính quyền, 2 quân đội, 3 vùng; bảo đảm ngừng bắn, ngăn chặn địch khiêu khích lấn chiếm, đòi tự do dân chủ cho nhân dân; giữ vững hoạt động của Ban liên hiệp quân sự 4 bên và Ban liên hiệp quân sự 2 bên.

Xây dựng kế hoạch “thời cơ”

Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh tại Căm Xe, Bến Cát, Sông Bé. Ảnh: T.L.

Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh tại Căm Xe, Bến Cát, Sông Bé. Ảnh: T.L.

Phát hiện được kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” của chính quyền Thiệu do Phòng Tình báo Bộ Tham mưu Miền cung cấp, Bộ Chỉ huy Miền xây dựng kế hoạch “thời cơ”, chỉ đạo các lực lượng vũ trang đồng loạt tiến công nhằm cải thiện thêm một bước về thế trận. Đến trước thời điểm Hiệp định Paris có hiệu lực (8g ngày 28-1-1973), toàn B2 đã giành quyền làm chủ thêm 541 ấp, 5 xã với 28 vạn dân. Kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” bị phá sản, Thiệu bất chấp quy định ngừng bắn, dốc toàn lực phản kích trên toàn chiến trường.

Đến cuối tháng 2-1973, chúng đã chiếm lại gần như toàn bộ vùng cách mạng mới mở ra trong đợt “thời cơ”. Trong tháng 2 và 3 năm 1973, chúng tổ chức 12.000 cuộc hành quân lấn chiếm càn quét ở địa bàn Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long.

Trước hành động ngang ngược của địch và thái độ bị động lúng túng của một số đơn vị địa phương của ta, từ kinh nghiệm của Quân khu 9 (do đồng chí Lê Đức Anh làm Tư lệnh, đồng chí Võ Văn Kiệt làm Chính ủy) trong việc giữ nguyên thế đứng chân của lực lượng chủ lực để hỗ trợ cho lực lượng vũ trang địa phương chống địch lấn chiếm bình định, Bộ Chỉ huy Miền điện chỉ đạo các quân khu: không phân tuyến chia vùng, giữ vững thế da báo, đưa các đơn vị chủ lực Miền xuống áp sát vùng trung tuyến phối hợp với địa phương chủ động tiến công địch, dần lấy lại thế chủ động trên các chiến trường.

Vừa tập trung chỉ đạo điều chuyển lực lượng và hoạt động tác chiến trừng trị địch vi phạm Hiệp định, giữ vững thế trận chiến tranh nhân dân, Bộ Chỉ huy Miền vẫn chú trọng công tác xây dựng lực lượng vũ trang, huấn luyện cán bộ và bộ đội, bảo đảm hậu cần, xây dựng hậu phương quân đội, xây dựng khu giải phóng và căn cứ địa. Bộ đội chủ lực phát triển mạnh các đơn vị đặc công. Lực lượng vũ trang địa phương tập trung xây dựng mở rộng dân quân du kích.

Các đoàn hậu cần được sắp xếp lại, chuyển hệ thống kho tàng, địa bàn thu mua lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm từ Campuchia về nước, lập thêm nhiều cung trạm mới sẵn sàng tiếp nhận chi viện lớn trên tuyến 559 đông Trường Sơn. Các căn cứ địa ở Bắc Tây Ninh, Bắc Bình Phước, Tây Quảng Đức, chiến khu Đ, Đồng Tháp Mười được củng cố và phát triển, tạo thành vùng căn cứ liên hoàn nối hậu phương lớn vào đến Sài Gòn, Đông và Tây Nam bộ.

Hoạt động của Bộ Chỉ huy Miền trong năm 1973 đã góp phần tạo nên một biến chuyển mới, đưa cách mạng miền Nam đến trước ngưỡng cửa của cuộc “đại chuẩn bị” trên quy mô lớn cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.

» Bài 2: Thế và lực cho cuộc tổng tiến công

Hồ Sơn Đài

Tin cùng chuyên mục