Bích Nguyệt, một hồn thơ, một hồn trăng!

Bích Nguyệt, một hồn thơ, một hồn trăng!

Tôi đã biết đến một Bích Nguyệt với những bức tranh bước ra từ tiềm thức, mang màu sắc trầm ấm, với nắng hanh vàng của mùa thu, màu nâu của đất và màu hồi sinh của phù sa...

Tôi đã biết đến một Bích Nguyệt, vượt qua những tháng ngày cơ cực với tuổi thơ… Và, tôi cũng đã biết đến một Bích Nguyệt, nằm đó trên giường bệnh, từ đôi mắt thẳm sâu mang gam màu của đất đai, cây cỏ, của chút ánh sáng le lói cuối chiều thu, của tiếng gió hú trên đồi thông Đà Lạt... để hồi tưởng, để lắng nghe âm thanh cuộc sống, cả tiếng bàn bạc, tiếc thương của những người thân yêu chuẩn bị cho chị một chuyến đi xa về nơi cuối đất, cùng trời...

Tập thơ “Trăng” của Bích Nguyệt.

Tập thơ “Trăng” của Bích Nguyệt.

Có lẽ thế, mà đọc tập thơ đầu tay mang tên Trăng của chị với những trăng, những trờiđất, những thu vàng, hư ảo, những gió, mưa, lo, ốm, một thoáng tang bồng..., tôi cảm nhận thêm được một Bích Nguyệt vừa tài hoa, đoan trang, vừa yếu đuối, cô đơn, nhưng lại vừa mạnh mẽ, quyết liệt… khát khao khẳng định mình dưới cõi trần thế vừa thực, vừa mơ này.

Sinh thời, nhà nghiên cứu mỹ học Hoàng Thiệu Khang đã từng nói: “Đọc thơ cũng là soi mình vào những dòng sông ấy, tìm cái bóng dáng của chính mình”. Còn thi sĩ Chế Lan Viên thì nhận định: “Sau câu thơ hồi hộp những tâm tình/Những vui buồn đời ký thác cho anh”.

Đúng như thế, Bích Nguyệt đã “soi mình vào dòng sông của cuộc đời” đã “Ký thác vui buồn” đời mình cho thơ, hay nói cách khác, chị đã vịn vào những câu thơ do chính mình viết, để ký thác cho đời.

Đọc hơn 30 bài thơ của Bích Nguyệt ta thấy đâu đó nỗi trăn trở, da diết, nặng nợ với cuộc đời. Những gam màu đất, phù sa, những tĩnh vật hay phong cảnh bỗng ùa về trong thơ với nét riêng vừa da diết, vừa hững hờ, vừa khát khao, cháy bỏng, vừa lạnh lùng, mặc trôi.

Trăng, đêm trăng, trăng mờ, trăng một mình, trăng rất lạnh, trăng lủi thủi... cứ thoáng ẩn, thoáng hiện:

Kìa,
Hét lên đi
Hỡi các vì sao
Bởi các ngươi có nhau ngàn ngàn, triệu triệu
Còn ta,
Ta chỉ một mình cô lẻ
Một vầng trăng... rất lạnh
(Trăng)

Trăng một mình soi bóng, giữa mênh mông
(Lặng lẽ)

Nguyệt là trăng nên Bích Nguyệt cũng không thoát khỏi sự cô đơn, lẻ loi, bởi:

Ở trên trời có triệu vì sao
Nhưng chỉ có một mình trăng... lủi thủi
(Xa cách)

Trăng đẹp thế, huyền diệu và thơ mộng thế, nhưng trong thơ Bích Nguyệt trăng luôn đơn côi, lủi thủi, một mình. Thơ là một cái gì tự nó. Thơ đích thực, chỉ có thể bước ra từ trái tim. Cố thi sĩ Thảo Phương, tác giả của những câu thơ ấn tượng như: “Làm sao quên được mùa đông. Chiều thu cây cầu đã gãy...” đã từng khẳng định: “Thơ là một cái gì đó “muốn” cũng không được và “không muốn” cũng không được”. Bích Nguyệt cũng thế, chị muốn cũng không được, như chính chị tâm sự: “Làm thơ, viết văn... để giải thoát những trăn trở, những bức xúc trong tâm hồn”.

Sự giải thoát ấy đã thai nghén và cho ra đời những đứa con tinh thần đầy sức sống của chị. Bích Nguyệt viết về tình yêu lứa đôi theo cách riêng. Chị sử dụng trăng như là một phương tiện để chuyển tải những trăn trở. Và, có khi trong câu thơ của chị không thấy sự đơn côi, lủi thủi của vầng trăng, nhưng ta vẫn thấy tràn ngập ánh trăng với sự hiện hữu của trái tim khát khao, cháy bỏng:

Đất chẳng gặp trời/ đất không là đất
Trời không có đất/ trời không là trời
(Trời và đất)

Trời xa quá nên hóa mây xanh
Em xa quá nên hóa thành hư ảo
Anh đi tìm em – anh đi tìm hư ảo
(Hư ảo)

Bóng trăng xanh - lơ lửng ở trên cành
Như quả chín - muôn đời không hái được
(Trái cấm)

Em tan thành gió, biến thành mây
Anh sẽ bảo “Hôm nay sao gió thế!”
(Gió)

Cuộc đời của mỗi con người luôn có sự bất ngờ. Sự bất ngờ ấy, đôi khi tồn tại khách quan với ý muốn chủ quan của chúng ta. Nhưng tôi nghĩ, đối với Bích Nguyệt, sự bất ngờ ấy bước ra từ nghị lực vượt lên của chị để trở thành: một họa sĩ với những nét riêng, một chuyên viên thẩm mỹ, và... một nhà thơ!

Xem Bích Nguyệt, đọc Bích Nguyệt và gần Bích Nguyệt, ta cảm nhận và suy tưởng về một hồn tranh, một hồn thơ và một hồn trăng!

Sài Gòn đêm thu 2008 

TRẦN THẾ TUYỂN

Tin cùng chuyên mục