Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa Lê Thị Thu Hiền: Chủ tịch UBND tỉnh chịu trách nhiệm toàn diện với các di sản văn hóa trên địa bàn

Liên quan đến vụ việc bảo vật quốc gia "Ngai vàng triều Nguyễn" bị phá hoại, phóng viên Báo Sài Gòn Giải Phóng đã có cuộc trao đổi với Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa Lê Thị Thu Hiền về những vấn đề liên quan đến công tác bảo tồn di sản và việc trưng bày hiện vật, nhất là các bảo vật quốc gia.

CN3 tro chuyen.jpg
Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa Lê Thị Thu Hiền

PHÓNG VIÊN: Sau sự việc đáng tiếc vừa qua, dư luận hiện quan tâm các hiện vật, nhất là các bảo vật quốc gia đang trưng bày tại Di tích cố đô Huế có phải là hiện vật gốc không?

Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa LÊ THỊ THU HIỀN: Tôi có thể khẳng định rằng, tất cả hiện vật trưng bày tại Di tích cố đô Huế đều là bản gốc. Theo quy định của Luật Di sản văn hóa (DSVH) sửa đổi, bổ sung năm 2024 (Điều 65), bảo tàng công lập chỉ được thành lập khi đáp ứng đủ các điều kiện, một trong các điều kiện đó là có hiện vật, sưu tập hiện vật gốc theo một hoặc nhiều chủ đề. Điều 68 của luật này cũng quy định, một trong các nhiệm vụ của bảo tàng là trưng bày hiện vật gốc tại bảo tàng, trên môi trường điện tử; trưng bày ở trong nước và nước ngoài. Do đó, bảo vật quốc gia đang trưng bày chắc chắn là hiện vật gốc, không thể và cũng không được phép trưng bày các hiện vật sao chép, trừ trường hợp bất đắc dĩ và phải có thông báo cụ thể.

Một số ý kiến đặt câu hỏi là vì sao hiện vật quan trọng như ngai vàng lại dễ bị bẻ gãy, hư hỏng, thì chúng ta cần hiểu rằng, di sản văn hóa, đặc biệt là những hiện vật bằng gỗ như "Ngai vàng triều Nguyễn" đã tồn tại hơn 200 năm, được sử dụng xuyên suốt 13 đời vua nhà Nguyễn. Trong điều kiện độ ẩm và khí hậu của nước ta, các hiện vật bằng gỗ chịu ảnh hưởng nặng nề trước tác động của thời gian nên không thể vững chắc như ban đầu.

Theo Cục trưởng, để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho bảo vật quốc gia, cần phải xây dựng cơ chế xử phạt cụ thể, rõ ràng và nghiêm khắc như thế nào với các hành vi vi phạm, dù là lỗi chủ quan hay khách quan?

Luật DSVH năm 2024 đã quy định rõ về các hành vi bị nghiêm cấm: Xâm hại, hủy hoại hoặc gây nguy cơ hủy hoại di sản văn hóa (tại Điều 9). Để bảo đảm phân định rõ chế tài xử lý vi phạm, Điều 345 Luật DSVH cũng thống nhất và đồng bộ với quy định của Bộ Luật Hình sự về hành vi vi phạm gây hư hại, hủy hoại tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh cấp tỉnh, cấp quốc gia hoặc quốc gia đặc biệt... với các mức độ xử phạt từ vi phạm hành chính, phạt tiền đến phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù (khung từ 6 tháng đến 3 năm hoặc từ 3 năm đến 7 năm).

Theo Luật DSVH, chủ tịch UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm toàn diện trong việc quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị của tất cả di sản văn hóa trên địa bàn của mình. Đây là các di sản đã được đưa vào danh mục kiểm kê, được xếp hạng, ghi danh, công nhận trong các danh mục của quốc gia, danh mục của UNESCO, trong đó bao gồm các di vật, cổ vật đã được đăng ký và bảo vật quốc gia đã được công nhận, theo quy định của Luật DSVH và quy định khác của pháp luật có liên quan. Địa phương phải có phương án bảo vệ và bảo quản theo đúng quy định.

z6659944796074_71fc685640f6910d0fdb274e9a447f1d.jpg
“Ngai vàng triều Nguyễn” bản sao trưng bày ở điện Thái Hòa sau khi bản gốc bị phá hỏng. Ảnh: VĂN THẮNG

Theo bà, trong quy trình xử lý một bảo vật quốc gia không may bị hư hại, đâu là bước quan trọng nhất?

Theo quy định của Luật DSVH sửa đổi, bổ sung năm 2024 và Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật DSVH và biện pháp tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật DSVH, khi một bảo vật quốc gia bị hư hại, bước đầu tiên và quan trọng nhất là phải thành lập hội đồng khoa học chuyên môn để xác định hiện trạng và đề xuất, xác định giải pháp bảo quản, phục chế bảo vật quốc gia.

Về phía Bộ VH-TT-DL sẽ hướng dẫn, hỗ trợ các địa phương trong quá trình thực hiện, bảo đảm tuân thủ quy trình, quy định của pháp luật về di sản văn hóa. Nếu UBND cấp tỉnh có đủ các điều kiện về chuyên gia bảo quản, thành phần các nhà khoa học, chuyên gia phù hợp, liên quan đối với bảo vật quốc gia để thành lập hội đồng thẩm định cũng như đáp ứng yêu cầu về nguồn lực, bảo đảm các điều kiện, yêu cầu về bảo vệ, bảo quản bảo vật quốc gia theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa, UBND cấp tỉnh hoàn toàn có thể chủ động lập kế hoạch bảo quản và phục chế bảo vật quốc gia. Tuy nhiên, kế hoạch phục chế sau khi được hội đồng khoa học thẩm định phải gửi đến Bộ VH-TT-DL để lấy ý kiến, trước khi chủ tịch UBND cấp tỉnh phê duyệt. Việc thực hiện bảo quản, phục chế bảo vật quốc gia chỉ được phép thực hiện sau khi có ý kiến bằng văn bản của Bộ VH-TT-DL.

Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa Lê Thị Thu Hiền cũng cho biết thêm, đối với các di sản văn hóa, các di tích được xếp hạng di tích quốc gia, di tích quốc gia đặc biệt, có chất liệu gỗ, thuộc loại hình kiến trúc nghệ thuật, theo chu kỳ thông thường mỗi 10 năm sẽ bắt buộc phải tiến hành tu bổ nhỏ, 20 năm tu bổ vừa và từ 30-40 năm tu bổ lớn. Luật DSVH (Điều 52) có quy định cho phép làm bản sao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Nhưng quy định rất chặt chẽ điều kiện để làm bản sao chỉ được thực hiện nhằm mục đích bảo vệ và phát huy giá trị trong trường hợp di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia dễ bị hư hại, cần hạn chế sử dụng và phải có giấy phép làm bản sao bảo vật quốc gia của Bộ trưởng Bộ VH-TT-DL, hoặc giấy phép làm bản sao di vật, cổ vật của người đứng đầu cơ quan chuyên môn về văn hóa cấp tỉnh. Bản sao không có giá trị tương đương bản gốc, không thay thế được bản gốc; không được sử dụng vì mục đích lợi nhuận; khi sử dụng phải có chú thích là bản sao...

Luật cũng quy định rõ về quy trình làm bản sao, chất liệu, trình tự kỹ thuật chế tác, số lượng, thời gian làm bản sao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia phải được thể hiện chi tiết và lưu thành hồ sơ. Các sản phẩm làm giống di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia nhưng không đúng quy định nêu trên được xác định là làm giả.

Tin cùng chuyên mục