Chữa "bệnh thành tích", cải thiện môi trường đầu tư

Đó là những nhiệm vụ quan trọng hơn cả, theo nhận định của TS Nguyễn Đức Kiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội trong cuộc trao đổi với phóng viên Báo SGGP về tình hình kinh tế - xã hội những tháng cuối năm 2016.
Chữa "bệnh thành tích", cải thiện môi trường đầu tư

Đó là những nhiệm vụ quan trọng hơn cả, theo nhận định của TS Nguyễn Đức Kiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội trong cuộc trao đổi với phóng viên Báo SGGP về tình hình kinh tế - xã hội những tháng cuối năm 2016.

Chữa "bệnh thành tích", cải thiện môi trường đầu tư ảnh 1

TS Nguyễn Đức Kiên

- Phóng viên: Thưa ông, một số nghiên cứu vừa được công bố tuần qua đưa ra nhận định cho rằng mục tiêu tăng trưởng GDP cả năm 6,7% là không khả thi. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?

>> TS NGUYỄN ĐỨC KIÊN: Tôi cho rằng bên cạnh một số yếu tố thuận lợi, tình hình kinh tế trong nước quả thực đang phải chịu nhiều tác động bất lợi. Tình hình kinh tế thế giới tiếp tục giảm đà tăng trưởng; các tổ chức quốc tế đều điều chỉnh hạ thấp dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2016. Theo đánh giá ban đầu kết quả trưng cầu dân ý việc Anh rời khỏi Liên minh châu Âu (Brexit), sẽ tác động đến từng quốc gia và nền kinh tế toàn cầu, dù việc cụ thể hóa những tác động này đối với kinh tế Việt Nam ở thời điểm này là còn hơi sớm.

Trong nước, sự cố môi trường nghiêm trọng tại vùng biển các tỉnh miền Trung, tình hình khí hậu diễn biến bất thường, rét đậm ở phía Bắc, hạn hán ở Tây Nguyên và Nam Trung bộ, xâm nhập mặn ở khu vực ĐBSCL đã ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống người dân. Trong khi đó, chúng ta không thể đẩy mạnh xuất khẩu như mong muốn, bởi một tỷ trọng rất lớn kim ngạch xuất khẩu là từ các doanh nghiệp thuộc khối FDI mà công suất đã gần tới hạn, không thể có sự tăng trưởng đột biến nếu như không có những khoản đầu tư lớn tiếp theo. Đặc biệt là các sản phẩm linh kiện điện, điện tử, điện thoại di động tới đây sẽ tăng trưởng chậm lại và giảm dần trong khoảng từ  năm 2018 đến 2020, nếu không có đầu tư mới.

- Ông có thể giải thích rõ hơn luận điểm cho rằng đánh giá tác động của Brexit đến Việt Nam lúc này là sớm?

Bởi vì còn phải nhìn xem cách thức cụ thể của Brexit diễn ra như thế nào, phản ứng của EU với Brexit ra sao khi nước Anh bắt đầu khởi động Điều 50 của Hiệp ước Lisbon, tức là tiến hành các việc cần làm sau cuộc “ly dị” đó. Cho tới khi các cơ quan nghiên cứu và điều hành chính sách của EU có kịch bản đánh giá và khắc phục hậu quả của Brexit thì lúc ấy chúng ta mới đánh giá được tác động thực tế.

Nhưng dù sao đi nữa, tôi cho rằng trong những tháng cuối năm 2016, ảnh hưởng trực tiếp của Brexit đến kinh tế Việt Nam cũng có giới hạn, khoảng 0,1% - 0,3% tốc độ tăng trưởng chung và 3% - 5% kim ngạch xuất khẩu sang EU mà thôi.

Khu đô thị mới Thủ Thiêm (TPHCM) đang dần hình thành. Ảnh minh họa: Việt Dũng

- Có ý kiến lo ngại rằng do Brexit mà tỷ giá ngoại tệ đang “nhảy múa”, làm cho các khoản nợ vay nước ngoài tăng vọt, ông có đồng tình?

Về nguyên tắc thì đúng vậy, nhưng điều này còn phụ thuộc niên độ trả nợ. Cho nên tác động là có nhưng chưa định lượng được. Mặc dù vậy, nợ công đúng là vấn đề đáng quan ngại. Tỷ lệ nợ công trên GDP không phải quá lớn, nhưng trên thực tế, khả năng trả nợ đến hạn của chúng ta, nhất là từ năm 2013 trở lại đây, ngày càng yếu dần, dẫn đến việc phải đi vay để đảo nợ. Đáng quan ngại nhất sẽ là giai đoạn năm 2022 - 2025 - chu kỳ phải trả nợ lớn nhất. Với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay thì chúng ta rất khó trả được nợ. 

- Lạm phát có phải là một vấn đề đáng quan ngại khác không, thưa ông?

Trong nửa cuối năm 2016 thì không. Tôi nghĩ giá cả nếu có tăng cũng quanh mức từ 4% đến 6%, là mức chấp nhận được.

- Vậy ông cho rằng cần có những giải pháp điều hành theo hướng nào?

Tôi cho rằng trước hết chúng ta cần thay đổi nhận thức về phát triển kinh tế - xã hội. Đã đến lúc phải kiên quyết chữa bệnh thành tích, thẳng thắn nhìn nhận một sự thực là nhiều chỉ tiêu về công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ không thể đạt được vào năm 2020. Như thế thì định hướng đầu tư phải khác. Đơn cử như mục tiêu đến năm 2020 có khoảng 2.000 đến 2.500km đường cao tốc cần phải xem lại; nếu không sẽ tạo ra sự mất cân đối trong tăng trưởng. Phát triển cơ sở hạ tầng giao thông sẽ tạo ra đòn bẩy cho tăng trưởng kinh tế, nhưng cơ sở hạ tầng giao thông không chỉ là đường bộ, mà còn bao gồm cả đường sắt, đường thủy và đường hàng không. Quá chú trọng đầu tư cho đường bộ cao tốc sẽ phá vỡ cân bằng về phương thức vận tải, tạo ra áp lực lên giá thành của toàn bộ nền kinh tế và tiềm ẩn nguy cơ bất ổn xã hội khi người dân không được quyền lựa chọn phương thức vận tải cũng như con đường mình muốn đi mà phải đi loại đường phải trả phí cao.

Điểm thứ hai đáng lưu ý về chính sách vĩ mô là phải triển khai đúng tinh thần kết luận của Thủ tướng tại hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm 2016: tạo ra tăng trưởng kinh tế là việc của doanh nghiệp, nhưng tạo môi trường minh bạch, thuận lợi cho phát triển kinh tế là việc của chính quyền. Đấy là con đường đầy chông gai, trăn trở và đau đớn vì tự mình phải cắt bỏ những phần thừa, phần băng hoại của bộ máy.

Trong điều hành cụ thể, tôi hy vọng Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ đổi mới phương thức tiếp cận và quản lý truyền thông để tạo ra sự đồng thuận trong xã hội. Chúng ta chỉ còn có 5 năm nữa để đổi mới mô hình tăng trưởng. Với công nghiệp, đó là nỗ lực gia nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu; tìm cách áp dụng công nghệ mới để hạ giá thành, bảo vệ môi trường; chiếm được một thị phần đủ để có tiếng nói mà thị trường quốc tế phải ghi nhận. Về thương mại dịch vụ, chú trọng đến lĩnh vực du lịch - thế mạnh của Việt Nam mà chúng ta mới khai thác rất hạn chế. Về nông nghiệp, hơn lúc nào hết phải xem xét, nghiên cứu sửa Luật Đất đai 2013, tạo điều kiện cho tích tụ ruộng đất, phát triển nông nghiệp hàng hóa.

- Xin cảm ơn ông!

ANH THƯ thực hiện

Tin cùng chuyên mục