Cổ phần hoá hàng loạt có thể “đẻ” ra 3 “nền kinh tế” ​

3 “nền kinh tế” này được ví von theo thứ tự như “con đẻ”, “con nuôi” và “con ngoài giá thú”, có thân phận, luật lệ và thị trường riêng, nhưng dựa dẫm vào nhau, hình thành nhiều nhóm lợi ích, các hiện tượng “chân trong chân ngoài” tạo ra những luồng lạch, những mạch ngầm để hút nội lực lẫn nhau và kìm hãm sự phát triển tổng thể…

Tại “Diễn đàn quản trị sự thay đổi và tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh toàn cầu hóa” được Tạp chí Kinh tế và Dự báo tổ chức sáng nay 30-11, TS Nguyễn Văn Khách, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia nhận định, việc công bố thông tin và tính minh bạch đối với DNNN còn thấp.

Theo Nghị định 81/2015/NĐ-CP về công bố thông tin của DNNN, các DNNN phải công bố các thông tin về: báo cáo tài chính năm; kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển năm kế tiếp; báo cáo đánh giá thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm và 3 năm gần nhất tính đến năm báo cáo; báo cáo kết quả sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp; báo cáo thực trạng quản trị và cơ cấu tổ chức…

Tuy nhiên, theo Bộ KH-ĐT, năm 2017, mới có 265/622 doanh nghiệp (chiếm 42,6% số DNNN) gửi báo cáo đến Bộ này để công bố thông tin trên Cổng thông tin doanh nghiệp. Năm 2016, tỷ lệ là 38,9%.

Cổ phần hoá hàng loạt có thể “đẻ” ra 3 “nền kinh tế” ​ ảnh 1 Theo Danh mục DNNN hoàn thành CPH theo từng năm giai đoạn 2017 – 2020, Tổng Công ty Viễn thông MobiFone là doanh nghiệp thuộc Bộ TT-TT sẽ hoàn thành CPH trong năm 2018, nhưng việc này có thể kéo dài sang năm 2019

Trong khi đó, công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá các DNNN còn nhiều hạn chế, chủ yếu căn cứ vào các báo cáo hành chính của công ty, trong khi cơ chế xác định tính trung thực của các báo cáo này còn chưa cao do nhiều DNNN chưa thực hiện kiểm toán độc lập.

Đáng lưu ý, các chỉ tiêu dùng để quản lý, giám sát mới tập trung vào lĩnh vực tài chính. Các vấn đề khác như tình hình chấp hành quyết định của chủ sở hữu nhà nước, triển khai các dự án được phê duyệt, công tác bổ nhiệm cán bộ… chưa được quy định cụ thể bằng các chỉ tiêu định lượng hoặc dễ lượng hóa phục vụ cho công tác đánh giá.

Hơn nữa các chỉ tiêu giám sát, đánh giá hiện nay vẫn chỉ áp dụng đối với công ty mẹ/tổng công ty, chưa hình thành hệ thống tiêu chí đánh giá đối với toàn bộ công ty mẹ và các công ty thành viên.

Đặc biệt, chưa có hệ thống dữ liệu quốc gia về toàn bộ doanh nghiệp có vốn Nhà nước để phục vụ cho công tác giám sát, vạch chiến lược, định hướng phát triển cho toàn bộ khối DNNN.

Ghi nhận việc thực hiện việc tách biệt chức năng chủ sở hữu nhà nước với chức năng quản lý nhà nước, thông qua việc hình thành tổ chức chuyên trách thực hiện quyền và nghĩa vụ chủ sở hữu vốn nhà nước đầu tư (Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp) là một bước tiến quan trọng, TS Nguyễn Văn Khách đề nghị thêm nhiều giải  pháp khác, bao gồm thiết lập hệ thống thông tin quản lý vốn chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp tầm quốc gia; áp dụng nghiêm các chế tài xử phạt đối với các DNNN không tuân thủ các quy định về công bố thông tin, gắn việc tuân thủ yêu cầu công bố thông tin với trách nhiệm người đứng đầu, người đại diện vốn chủ sở hữu Nhà nước…

Đồng tình với nhiều nhược điểm trong quản trị DNNN, TS Nguyễn Đại Lai, chuyên gia tài chính, ngân hàng cho rằng việc cổ phần hoá (CPH) DNNN sẽ không đạt được mục tiêu nếu chỉ chạy theo tiến độ theo kiểu đơn giản là “biến hoá” DNNN thành Công ty cổ phần để Nhà nước cùng người lao động thu “tiền” về bằng cổ phần và cùng tồn tại.

“Những DN nào không bị xóa thì hầu như vẫn không có gì đổi mới về cấu trúc thời hậu CPH - Không ai mất chức, mất việc hoặc nếu rời DN trong độ tuổi lao động thì được Nhà nước “trả một cục” để đi tìm việc khác. Lực lượng lao động căn bản vẫn là những người cũ - vẫn vừa làm lãnh đạo, vừa làm thuê cho Nhà nước... Đặc biệt sau CPH hàng loạt đó, nền kinh tế Việt Nam lại “đổi mới” thành một nền kinh tế bị chia cắt ra làm 3 nền kinh tế có hàng rào, vị thế, cơ chế vận hành và cả thị trường tiếp cận tư liệu sản xuất ở đầu vào độc lập nhau, gồm: Nền kinh tế Nhà nước, nền kinh tế tư nhân và nền kinh tế FDI”, ông Lai nhấn mạnh. 

Theo chuyên gia này, 3 “nền kinh tế” này được ví von theo thứ tự như “con đẻ”, “con nuôi” và “con ngoài giá thú”, có thân phận, luật lệ và thị trường riêng, nhưng dựa dẫm vào nhau, hình thành nhiều nhóm lợi ích, các hiện tượng “chân trong chân ngoài” tạo ra những luồng lạch, những mạch ngầm để hút nội lực lẫn nhau và kìm hãm sự phát triển tổng thể…

Điều này làm cho kinh tế Việt Nam sau hơn 30 năm đổi mới mà vẫn căn bản là nền kinh tế thô ở khu vực thuần nội và “không thô” nhưng giá trị mới gia tăng rất ít hoặc bị chuyển giá trốn thuế rất lớn ở khu vực FDI.

Tin cùng chuyên mục