Theo TS Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ KH-CN, Nghị quyết 57 thể hiện rõ ý chí đột phá chiến lược của lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong việc thúc đẩy KH-CN trở thành động lực chính phát triển đất nước. Tuy nhiên, quá trình triển khai đang chậm so với yêu cầu thực tiễn.
* Phóng viên: Dưới góc độ của một người từng đứng đầu Bộ KH-CN và cũng là chuyên gia trong lĩnh vực này, ông đánh giá thế nào sau gần 1 năm Nghị quyết 57 được ban hành?
- TS Nguyễn Quân: Nghị quyết 57 rất đột phá, thể hiện rõ ý chí chiến lược của lãnh đạo Đảng, Nhà nước khi xác định KH-CN và đổi mới sáng tạo là động lực tăng trưởng chủ yếu. Tôi ấn tượng với 4 nội dung rất mới được nhấn mạnh:
Thứ nhất là ngân sách Nhà nước tài trợ cho KH-CN theo cơ chế quỹ và thông qua các quỹ phát triển KH-CN ở cả cấp Trung ương và cấp địa phương.
Thứ hai là lần đầu tiên chúng ta chấp nhận trong hoạt động khoa học có thất bại, có mạo hiểm, có rủi ro.
Thứ ba là quyết định phải đầu tư rất lớn cho KH-CN, không chỉ 2% tổng chi ngân sách Nhà nước như trước đây mà với mức là 3%; và tổng đầu tư xã hội dành cho R&D năm 2030 vượt mức 2% GDP quốc gia.
Thứ tư là ý chí của lãnh đạo Đảng và Nhà nước thể hiện rất rõ. Đó là phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng với Ban Chỉ đạo Trung ương do Tổng Bí thư làm Trưởng ban, và phải đạt được những mục tiêu rất cao về các nguồn lực như: đầu tư, nhân lực và cơ chế tài chính.
Ngay sau khi Nghị quyết 57 ra đời đã có hội nghị toàn quốc để quán triệt, Quốc hội ra Nghị quyết 193 để thể chế hóa một số nội dung của nghị quyết, Chính phủ đã có Nghị quyết 03 về Chương trình hành động để thực hiện. Tất cả các nghị quyết đó đều giao cho các bộ ngành, địa phương khẩn trương ban hành các văn bản để thể chế hóa. Tuy nhiên, qua theo dõi cho đến thời điểm hiện nay, sau gần 1 năm, có thể thấy việc ban hành các văn bản dưới luật, dưới nghị quyết là rất chậm. Đến cuối tháng 10-2025, mới chỉ có Bộ KH-CN trình Quốc hội thông qua Luật KH-CN và Đổi mới sáng tạo, và tham mưu để Chính phủ ban hành Nghị định 88 hướng dẫn một số nội dung quan trọng của Nghị quyết 193 của Quốc hội và Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị; đồng thời tham mưu để Chính phủ ban hành 6 nghị định hướng dẫn chi tiết thi hành Luật KH-CN và Đổi mới sáng tạo và ban hành một số thông tư hướng dẫn liên quan. Còn hầu hết các bộ ngành khác hiện nay vẫn chưa ban hành được những văn bản trong lĩnh vực của mình để hướng dẫn. Các địa phương hiện nay đều dừng ở bước tổ chức học tập quán triệt và thành lập ban chỉ đạo. Còn những văn bản mang tính quy định thuộc thẩm quyền của địa phương gần như chưa được ban hành.
* Phóng viên: Theo ông, vì sao lại có sự chậm trễ này?
- TS Nguyễn Quân: Theo tôi có cả lý do khách quan lẫn chủ quan.
Về khách quan, chúng ta đang ở trong giai đoạn có nhiều thay đổi rất lớn về mặt thể chế, với việc tái cấu trúc lại toàn bộ hệ thống hành chính, từ chính quyền địa phương 3 cấp sang 2 cấp. Cùng với đó là sáp nhập các bộ ngành, địa phương. Đồng thời, chúng ta phải phấn đấu cho những mục tiêu rất lớn của đất nước là tăng trưởng trên 8% trong năm nay, và trên 10% trong những năm tiếp theo. Ngoài ra, quá trình chuẩn bị cho Đại hội XIV cũng khiến nhiều bộ ngành, địa phương phải dồn sức cho đại hội các cấp, nên việc triển khai các nội dung của Nghị quyết 57 bị chậm lại.
Về nguyên nhân chủ quan, theo tôi điểm nghẽn lớn nhất nằm ở nhận thức. Nhiều cán bộ quản lý nhà nước về KH-CN chưa hiểu hết những nội hàm của tư duy mới mà Nghị quyết 57 và Nghị quyết 193 đặt ra, dẫn đến triển khai chậm, thậm chí không hiệu quả.
Ví dụ về cơ chế quỹ và Quỹ phát triển khoa học – công nghệ (KH-CN) cho thấy, đến nay vẫn còn nhiều người chưa hiểu rõ vì sao cơ chế quỹ lại có thể khắc phục được điểm nghẽn rất lớn về đầu tư tài chính cho hoạt động KH-CN từ ngân sách Nhà nước. Để thực hiện được cơ chế này, cần phải thay đổi nhiều quy định cứng nhắc trong các luật liên quan đến ngân sách nhà nước và quản lý tài sản công.
Về đầu tư mạo hiểm, dù đã được đề cập từ cách đây khoảng 15 năm trong Luật Công nghệ cao năm 2008, nhưng đến nay chúng ta vẫn chưa từng triển khai trên thực tế. Trong suốt 15 năm qua, chưa có bất kỳ hành động cụ thể nào nhằm thúc đẩy đầu tư mạo hiểm, cũng như chưa có bộ, ngành hay địa phương nào ban hành hướng dẫn cho tư nhân thành lập và vận hành quỹ đầu tư mạo hiểm.
Tương tự, cơ chế khoán chi dù đã được quy định tại Thông tư liên tịch số 27 giữa Bộ KH-CN và Bộ Tài chính ban hành cách đây gần 10 năm, cho phép khoán đến sản phẩm cuối cùng, nhưng thực tế gần như chưa được áp dụng. Nguyên nhân chính là do chưa sửa đổi được các luật liên quan, dẫn đến không thể thực hiện cơ chế này trong thực tiễn.
* Phóng viên: Vậy theo ông, cần làm gì để Nghị quyết 57 thật sự đi vào cuộc sống?
- TS Nguyễn Quân: Theo tôi, có 3 việc cần phải làm ngay, và phải làm quyết liệt.
Thứ nhất là các bộ, ngành, địa phương cần xác định ngay lĩnh vực công nghệ chủ lực của mình, trên cơ sở tham chiếu Danh mục công nghệ chiến lược và sản phẩm chiến lược quốc gia theo Quyết định 1131 của Thủ tướng. Từ đó, tiến hành đặt hàng cụ thể cho các viện nghiên cứu, trường đại học, nhà khoa học, tập trung vào những sản phẩm có lợi thế, có thị trường và được Nhà nước hỗ trợ thương mại hóa, và có doanh nghiệp sẵn sàng đón nhận và ứng dụng để trở thành sản phẩm xã hội. Nếu không triển khai được cơ chế đặt hàng, chúng ta không thể sử dụng hiệu quả nguồn lực ngân sách cũng như vốn đầu tư từ doanh nghiệp cho hoạt động KH-CN một cách hiệu quả.
Thứ hai là các bộ, ngành và địa phương cần khẩn trương thành lập quỹ phát triển KH-CN cấp bộ, cấp tỉnh, bên cạnh Quỹ Phát triển KH-CN quốc gia (NAFOSTED). Toàn bộ nguồn tài trợ của Nhà nước cho KH-CN phải thông qua quỹ và áp dụng cơ chế quỹ một cách triệt để. Ngân sách nhà nước sẽ cấp tiền cho các quỹ, và các quỹ giải ngân theo tiến độ phê duyệt các đề tài, dự án KH-CN khi được đặt hàng.
Thứ ba, cần có chính sách đãi ngộ tương xứng cho người làm KH-CN. Trước hết, lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương phải tin tưởng và trao quyền tự chủ thực sự cho đội ngũ nghiên cứu, từ việc giao nhiệm vụ đến áp dụng cơ chế khoán chi và đầu tư mạo hiểm.
Khi có được lòng tin và cơ chế tài chính phù hợp, thông thoáng thì ngay cả không cần chế độ đãi ngộ đặc biệt về lương bổng, mà tự hoạt động KH-CN sẽ đem lại cho họ lợi ích, lợi nhuận, thu nhập. Khi đó nhà khoa học sẽ yên tâm làm việc, có động lực để cống hiến.
* Phóng viên: Nghị quyết 57 và Nghị quyết 193 đều khẳng định vai trò nòng cốt của khối viện, trường và doanh nghiệp công nghệ, cả nhà nước lẫn tư nhân. Ông đánh giá thế nào về việc triển khai thực hiện của hai lực lượng này thời gian qua?
- TS Nguyễn Quân: Ở khối viện, trường hiện nay, có một thực tế rất rõ là hoạt động nghiên cứu KH-CN không được quan tâm đúng mức, chủ yếu tập trung cho công tác đào tạo. Nghiên cứu tại nhiều trường đại học chỉ nhằm mục đích đáp ứng điều kiện phong chức danh giáo sư, phó giáo sư.
Một nguyên nhân khác là đến nay, các viện, trường chưa được đặt hàng thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu. Các viện, trường công lập hiện có xu hướng nghiên cứu mang tính tự phát, chủ yếu do các nhà khoa học thấy việc gì hay, phù hợp với khả năng thì tự đề xuất. Tuy nhiên, những đề tài đó có gắn với nhu cầu thị trường, có khả năng đầu tư phát triển hay không thì không được chú ý. Nếu áp dụng cơ chế đặt hàng, trong đó Nhà nước, các bộ, ngành, địa phương căn cứ vào chiến lược phát triển xã hội, vào các sản phẩm công nghệ chủ lực để đặt hàng cho các nhà khoa học ở viện, trường nghiên cứu, đồng thời có địa chỉ ứng dụng, có đầu ra cụ thể, thì hoạt động nghiên cứu của khối viện, trường sẽ hiệu quả hơn nhiều. Các bộ, ngành, địa phương đặt hàng cũng cần có trách nhiệm tiếp nhận kết quả nghiên cứu, tiếp tục đầu tư để hoàn thiện công nghệ và thương mại hóa. Khi áp dụng cơ chế đặt hàng, kết hợp với cơ chế khoán chi và cơ chế quỹ, các nhà khoa học mới thực sự được làm khoa học.
Với các tập đoàn công nghệ hiện nay, nếu có tiềm lực về tài chính và nguồn nhân lực tốt, họ có thể tự thành lập các đơn vị nghiên cứu và tự đặt hàng cho chính mình. Các doanh nghiệp như FPT, CMC hay Vingroup có thể thành lập các viện nghiên cứu, các trường đại học hoặc trung tâm khoa học để đáp ứng nhu cầu của chính họ và đặt hàng nhằm giải quyết những vấn đề công nghệ nội bộ. Ví dụ, Vingroup đã thành lập Viện VinAI và đặt hàng đơn vị này phải phát triển các nền tảng công nghệ thông minh phục vụ cho công nghiệp ô tô. FPT có các đơn vị nghiên cứu được giao nhiệm vụ làm phần mềm, thiết kế chip cho các lĩnh vực công nghiệp khác nhau. Do đó, các nhà khoa học làm việc trong các tập đoàn công nghệ này được giao nhiệm vụ cụ thể và được hưởng chế độ đãi ngộ cao từ doanh nghiệp.
* Phóng viên: Đối với những công nghệ chiến lược quốc gia, chúng ta nên tiếp cận thế nào, thưa ông?
- TS Nguyễn Quân: Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành danh mục 11 nhóm công nghệ chiến lược và các sản phẩm công nghệ chiến lược quốc gia. Đây là những công nghệ giữ vai trò rất quan trọng trong hệ thống KH-CN nói riêng, cũng như trong việc phát triển tiềm lực kinh tế quốc gia nói chung.
Tuy nhiên, thách thức lớn đặt ra là chúng ta đang ở vị trí xuất phát rất thấp so với thế giới trong những lĩnh vực này. Gần đây, chúng ta nói nhiều đến phát triển vi mạch bán dẫn, nhưng thực tế là gần như phải bắt đầu từ con số “0”. Tương tự, với lĩnh vực đường sắt cao tốc hay điện hạt nhân, chúng ta cũng gần như chưa có nền tảng, cũng phải bắt đầu từ đầu.
Vì vậy, cần xác định rõ trình tự thực hiện và không được nóng vội. Nếu muốn làm chủ công nghệ nguồn, công nghệ lõi, trước hết chúng ta phải tiếp cận được công nghệ của các nước phát triển, thông qua hợp tác để tiếp nhận công nghệ. Trong quá trình hợp tác đó, chúng ta cần giải mã, học hỏi và làm chủ từng bước. Đến khi nắm bắt toàn bộ công nghệ, mới bắt đầu phát triển công nghệ của chính mình, tạo ra công nghệ của Việt Nam. Tuy nhiên, công nghệ do Việt Nam tạo ra cần phải kế thừa và đồng bộ với công nghệ đã nhập khẩu, đang được vận hành, ứng dụng. Thế giới có hàng trăm năm phát triển, có nền tảng vững chắc cả về KH-CN lẫn công nghiệp, vì vậy chúng ta cần học hỏi và thực hiện các bước đi một cách bài bản.
Quan điểm của tôi là chúng ta phải đầu tư thật lớn, đầu tư tới ngưỡng để có thể làm chủ được công nghệ chiến lược. Dù sản phẩm công nghệ do chúng ta tạo ra có thể có giá thành cao do sản xuất đơn chiếc, chưa có thị trường, nhưng quan trọng là phải làm chủ. Trước mắt, nếu mua được với giá rẻ hơn, thì vẫn có thể nhập khẩu, kể cả xe cộ, vũ khí, tàu cao tốc hay điện hạt nhân,… vì hiện nay giá thành nhập khẩu chắc chắn thấp hơn nhiều so với việc tự sản xuất. Tuy nhiên, về lâu dài, chúng ta vẫn phải đầu tư, nghiên cứu, phát triển để tự làm chủ công nghệ. Cho dù mất thời gian, tốn kém, nhưng phải làm. Bởi nếu đến một lúc nào đó xảy ra tình huống không thể mua được, thì Việt Nam phải có khả năng tự lực làm ra, có công nghệ ứng dụng, có sản phẩm để đưa vào vận hành, không thể để nền kinh tế hay các hoạt động xã hội bị đình trệ. Bài học từ câu chuyện “cấm vận thương mại”, “cấm vận công nghệ” giữa Mỹ và Trung Quốc hiện nay là một minh chứng rõ ràng.
* Phóng viên: Nghị quyết 57 đã được ban hành, với nhiều kỳ vọng về việc tạo ra một cuộc cách mạng thực sự trong phát triển kinh tế – xã hội, cũng như đổi mới cách quản trị và vận hành xã hội. Ông nhìn nhận thế nào về điều này?
- TS Nguyễn Quân: Tôi cho rằng vai trò của người đứng đầu - từ cấp quốc gia đến các bộ, ngành, địa phương – là yếu tố mang tính quyết định. Những người ở vị trí này cần thay đổi tư duy một cách triệt để theo cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế đối với hoạt động khoa học – công nghệ (KH-CN) và đổi mới sáng tạo.
Nhiều người nói nghị quyết rất hay và cũng rất hào hứng với việc KH-CN phải có cơ chế đổi mới, đột phá. Tuy nhiên, những vấn đề cốt lõi của Nghị quyết 57 thì nhiều người vẫn chưa hiểu rõ. Đây vẫn là câu chuyện về nhận thức và tư duy. Phải quán triệt rằng KH-CN là lĩnh vực rất đặc thù, nên cơ chế tài chính dành cho nó cũng phải đặc thù, phải theo thông lệ quốc tế với ba cơ chế: đặt hàng, khoán chi và cơ chế quỹ. Nếu không thực hiện được ba cơ chế này, thì rất khó để nói đến hiệu quả đầu tư của Nhà nước cho KH-CN. Cùng với đó, tất cả các cấp, các ngành phải xác định rõ và hành động quyết liệt, xem KH-CN và đổi mới sáng tạo là động lực chính cho phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Nghị quyết đã được ban hành, mục tiêu đã được đặt ra, bây giờ là lúc phải hành động, phải bắt tay vào làm.
Tôi kỳ vọng rằng hết năm nay, các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị quyết 57, Nghị quyết 193, cũng như Luật KH-CN và Đổi mới sáng tạo sẽ được ban hành đầy đủ. Đồng thời, các bộ, ngành, địa phương cũng cần có chương trình hành động cụ thể, sản phẩm cụ thể, chứ không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu và quán triệt nghị quyết. Chỉ khi đó, những mục tiêu và nội dung “đột phá” của Nghị quyết 57 mới có thể sớm trở thành hiện thực.
* Phóng viên: Xin cảm ơn ông!