Theo các chuyên gia, những cải cách trên cho thấy ngành thuế đã tìm được hướng đi đúng, bởi những thay đổi này nằm trong tổng thể chính sách cải cách thuế của Việt Nam đang thực hiện với tầm nhìn xa hơn với 3 mục tiêu cơ bản: chính sách hợp lý và hài hòa (giữa Nhà nước - DN - người dân), điều chỉnh cơ cấu thuế hợp lý để đảm bảo nguồn thu ngân sách, tạo động lực mạnh mẽ cho cải cách.
Điều này cũng đặt ra kỳ vọng những năm tới - khi có sự phân bổ lại hoạt động sản xuất của các ngành nghề với Luật Thuế thu nhập DN, cùng với sắp xếp lại các địa phương tạo ra không gian phát triển tốt hơn, thì hoạt động thu ngân sách từ DN sẽ bền vững hơn. Không chỉ nhóm DN trong nước, đối với nhóm DN đầu tư nước ngoài, chính sách thuế và nguồn thu từ nhóm này cũng có sự thay đổi lớn.
Thứ nhất, nhóm nhà đầu tư phục vụ xuất khẩu. Nhóm này thường ít quan tâm đến thuế gián thu mà chú trọng hơn đến chi phí tuân thủ, khả năng rút ngắn thủ tục, sự thuận lợi trong nguồn cung đầu vào, chi phí lao động. Vừa qua, chính sách áp dụng thuế suất 0% cho DN nội địa cung cấp cho DN chế xuất, cùng với hướng dẫn rõ ràng, đã giúp giảm chi phí và tạo lợi ích thiết thực.
Thứ hai, nhóm nhà đầu tư tập trung vào thị trường nội địa. Nhóm này quan tâm nhiều đến thuế trực thu và gián thu. Thực tế, tại các cuộc đối thoại về chính sách thuế, các DN này đánh giá cao sự thông thoáng hơn về quy định chi phí được trừ, song chưa hài lòng với thuế thu nhập cá nhân (hiện mức giảm trừ gia cảnh 11 triệu đồng/tháng chưa tương xứng với chi phí lao động tăng cao, do đó Quốc hội đang xem xét để sửa đổi, bổ sung, cải thiện để hỗ trợ người lao động). Với thuế gián thu, việc giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống 8% đã kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy sản xuất, kể cả với DN FDI. Hay với thuế tiêu thụ đặc biệt, luật mới có hiệu lực từ ngày 1-1-2026 sẽ giúp hài hòa lợi ích giữa ngân sách, người tiêu dùng và DN.
Tất nhiên, thay đổi cơ cấu thu ngân sách Nhà nước là việc không thể thực hiện ngay trong “một sớm, một chiều”, mà phải sau 5 năm, thậm chí 10 năm mới có thể thấy sự thay đổi rõ rệt. Song những hiệu quả bước đầu là có thể thấy rõ trong thời gian qua khi xét ở hai khía cạnh: góc độ cân bằng giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với tốc độ tăng thu ngân sách; công tác quản lý thuế được cải thiện, nguồn thu ngân sách được đảm bảo kịp thời.
Cuối cùng, những thay đổi về chính sách thuế còn chính là động lực để cải cách. Ở nhiều quốc gia, chính sách thuế không chỉ điều tiết, mà còn định hướng hành vi với cách tiếp cận “thuế thưởng - thuế phạt” rất hiệu quả. Theo đó, thuế trở thành công cụ điều tiết hành vi, chứ không chỉ là công cụ thu ngân sách. Khi chính sách hướng đến mục tiêu “thưởng người làm đúng, phạt người làm sai”, thì tự thân DN sẽ có động lực đầu tư bền vững hơn và ngân sách cũng thu được ổn định, dài hạn hơn.
Trong bối cảnh môi trường đầu tư liên tục được cải thiện, nâng cao năng lực cạnh tranh, chính sách thuế được coi là then chốt khi vừa là công cụ điều tiết, vừa là đòn bẩy giúp cho DN phát triển bền vững, không chỉ bảo đảm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, mà còn là công cụ thực hiện nhiều mục tiêu đầu tư, khơi thông nguồn lực, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trong môi trường kinh doanh.